Thứ Tư, 4 tháng 11, 2015

GIA PHẢ HỌ NGUYỄN Ở DĨ AN BÌNH DƯƠNG *-* LỜI TỰA Chim có tổ người có tông Cây có cội nước có nguồn Đó là những lời ông ta bà nhắc nhở con cháu phải biết cội nguồn dòng họ mình. Anh em tôi được sinh ra và lớn lên trên quê hương bên ngoại. Đó là xã Bình Trị, huyện Dĩ An, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Tân Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương) – nơi có truyền thống cách mạng lâu đời. Cha - mẹ tôi theo cách mạng từ sau Cách Mạng Tháng Tám 1945 khi tuổi thanh xuân, và gặp nhau trong công tác, cả hai đã xả thân vì sự nghiệp cách mạng qua hai cuộc kháng chiến. Ông bà đã di chuyển ngược xuôi nhiều nơi trong công tác, bị bắt giam qua nhiều nhà tù, bị tra tấn dã man… Ra khỏi nhà tù của địch, cha lại vào chiến khu, mẹ tiếp tục hoạt động nội thành và phải luôn đối phó trước sự truy bắt của giặc thì còn đâu thời gian đưa anh em chúng tôi về quê nội. Anh em tôi lớn lên và học hành được bên ngoại chăm lo dạy dỗ nên không biết gì về quê hương và họ hàng bên nội. Sau khi đất nước được giải phóng, hòa bình được lập lại trên quê hương ta, đất nước ta. Nhiều người đã ly hương vì chiến tranh lo tìm về tổ quán, tìm lại họ hàng, xây lại mồ mả ông bà, nhà thờ họ tộc. Anh em chúng tôi cũng vội vã tìm về quê nội và họ hàng bên nội. Thật là mừng ! Chúng tôi đã tìm được tổ quán và họ hàng bên nội chúng tôi cùng mồ mả ông bà tổ nội của chúng tôi bên dòng sông Đồng Nai xinh đẹp, nước chảy hiền hòa. Chúng tôi cùng họ hàng bên nội giúp sức xây nhà thờ họ để có một nơi thờ phượng tổ tiên và lập đồng mả của dòng tộc trên đất tổ để tập trung mộ của họ hàng về đây để cùng nhau chăm sóc và giỗ tổ. Chúng tôi có ghi họ tên ba đời tổ tiên đặt trên bàn thờ tổ nhưng việc lập gia phả cho cả dòng họ thì tôi chưa làm được và nguồn gốc tổ tiên chúng tôi chưa tỏ tường. Ông bà ta dạy “nước có sử, nhà có phả”. Có sử để chúng ta biết lịch sử của dân tộc, để tự hào, để biết ơn tổ tiên đã dựng và giữ nước. Có phả để biết cội nguồn của dòng họ, biết được công lao dựng nghiệp của tổ tiên đối với con cháu, biết quan hệ thế thứ của những người trong họ biết truyền thống tốt đẹp của dòng họ mình để học tập và phát huy, biết mồ mả - giỗ chạp của tổ tiên để chăm sóc, phụng thờ và biết bà con họ hàng để khỏi vi phạm luân thường đạo lý. Dòng tộc chúng ta chưa có phả nên việc lập gia phả là việc làm cần thiết đối với họ ta. Do đó, tôi nhờ Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả lập bộ gia phả cho họ ta trước để tri ân tổ tiên sau để con cháu biết lịch sử dòng họ mình, biết những điều tốt để phát huy, điều chưa tốt để tránh, để thương yêu, giúp đỡ, giáo dục… để cùng họ tộc xây dựng dòng họ mình tốt hơn. Tôi rất hoan nghênh sự hưởng ứng của bà con trong họ tộc, đã cung cấp thông tin chính xác và cũng chân thành cám ơn Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả giúp chúng tôi hoàn thành bộ gia phả này. Dẫu có nhiều cố gắng song cũng sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Mong bà con tiếp tục bổ sung. Gia phả này được phổ biến rộng rãi. Thành phố Biên Hòa, ngày … tháng … năm 2010 Cháu đời IV Nguyễn (Lê) Minh Hải tự Lê Hồng Phương

Cừu đen  
StarNoteSchoolWorkMobile phoneCameraFilmstrip
  

KHOA HỌC THẾ KỶ 21 viện lịch sử dòng họ CLB gia phả học TPHCM TTNCVTH gia phả PHOTOHOUSE KHTK21
phòng chẩn trị TXNU Lê Thống Nhứt TBĐB QCDL HKH lịch sử    

CÓ 3 NỀN VĂN HOÁ LỚN HIỆN NAY   
TỰA VÀO 3 MỆNH ĐỀ LỚN SAU

1-NỀN VĂN HOÁ “KINH THÁNH” MỌI MUÔN VẬT  
    ĐỀU DO THƯỢNG ĐẾ TRỜI ĐẤT SINH RA

2- NỀN VĂN HOÁ “KINH DỊCH” TẤT CẢ MỌI THỨ  
     ĐỀU DO ÂM DƯƠNG MÀ HÌNH THÀNH

3- NỀN VĂN HOÁ “DARWIN . MARK . LENIN” TẤT CẢ  
    MỌI THỨ,MỌI SỰ VIỆC PHẢI CÓ THỜI GIAN TIẾN  
    HOÁ MÀ HÌNH THÀNH

khoa học thế kỷ 21 viện lịch sử dòng họ câu lạc bộ gia phả       học TPHCM trung tâm nghiên cứu    và thực.hành G.P
KHTK21 photohouse đồi cát   trắng motel phòng chẩn trị            tịnh xá ngọc uyển      lê thống nhứt  
thương binh đặc biệt

Máy quay/chụpTrường họcCông việc

 

LỜI TỰA

Chim có tổ người có tông

Cây có cội nước có nguồn

Đó là những lời ông ta bà nhắc nhở con cháu phải biết cội nguồn dòng họ mình.

Anh em tôi được sinh ra và lớn lên trên quê hương bên ngoại. Đó là xã Bình Trị, huyện Dĩ An, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Tân Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương) – nơi có truyền thống cách mạng lâu đời. Cha - mẹ tôi theo cách mạng từ sau Cách Mạng Tháng Tám 1945 khi tuổi thanh xuân, và gặp nhau trong công tác, cả hai đã xả thân vì sự nghiệp cách mạng qua hai cuộc kháng chiến. Ông bà đã di chuyển ngược xuôi nhiều nơi trong công tác, bị bắt giam qua nhiều nhà tù, bị tra tấn dã man… Ra khỏi nhà tù của địch, cha lại vào chiến khu, mẹ tiếp tục hoạt động nội thành và phải luôn đối phó trước sự truy bắt của giặc thì còn đâu thời gian đưa anh em chúng tôi về quê nội. Anh em tôi lớn lên và học hành được bên ngoại chăm lo dạy dỗ nên không biết gì về quê hương và họ hàng bên nội.

Sau khi đất nước được giải phóng, hòa bình được lập lại trên quê hương ta, đất nước ta. Nhiều người đã ly hương vì chiến tranh lo tìm về tổ quán, tìm lại họ hàng, xây lại mồ mả ông bà, nhà thờ họ tộc. Anh em chúng tôi cũng vội vã tìm về quê nội và họ hàng bên nội.

Thật là mừng ! Chúng tôi đã tìm được tổ quán và họ hàng bên nội chúng tôi cùng mồ mả ông bà tổ nội của chúng tôi bên dòng sông Đồng Nai xinh đẹp, nước chảy hiền hòa.

Chúng tôi cùng họ hàng bên nội giúp sức xây nhà thờ họ để có một nơi thờ phượng tổ tiên và lập đồng mả của dòng tộc trên đất tổ để tập trung mộ của họ hàng về đây để cùng nhau chăm sóc và giỗ tổ. Chúng tôi có ghi họ tên ba đời tổ tiên đặt trên bàn thờ tổ nhưng việc lập gia phả cho cả dòng họ thì tôi chưa làm được và nguồn gốc tổ tiên chúng tôi chưa tỏ tường.

Ông bà ta dạy “nước có sử, nhà có phả”. Có sử để chúng ta biết lịch sử của dân tộc, để tự hào, để biết ơn tổ tiên đã dựng và giữ nước. Có phả để biết cội nguồn của dòng họ, biết được công lao dựng nghiệp của tổ tiên đối với con cháu, biết quan hệ thế thứ của những người trong họ biết truyền thống tốt đẹp của dòng họ mình để học tập và phát huy, biết mồ mả - giỗ chạp của tổ tiên để chăm sóc, phụng thờ và biết bà con họ hàng để khỏi vi phạm luân thường đạo lý. Dòng tộc chúng ta chưa có phả nên việc lập gia phả là việc làm cần thiết đối với họ ta. Do đó, tôi nhờ Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả lập bộ gia phả cho họ ta trước để tri ân tổ tiên sau để con cháu biết lịch sử dòng họ mình, biết những điều tốt để phát huy, điều chưa tốt để tránh, để thương yêu, giúp đỡ, giáo dục… để cùng họ tộc xây dựng dòng họ mình tốt hơn.

Tôi rất hoan nghênh sự hưởng ứng của bà con trong họ tộc, đã cung cấp thông tin chính xác và cũng chân thành cám ơn Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả giúp chúng tôi hoàn thành bộ gia phả này.

Dẫu có nhiều cố gắng song cũng sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Mong bà con tiếp tục bổ sung.

Gia phả này được phổ biến rộng rãi.

Thành phố Biên Hòa, ngày … tháng … năm 2010

Cháu đời IV

Nguyễn (Lê) Minh Hải

tự Lê Hồng Phương

TỔ QUÁN HỌ NGUYỄN

Từ Thành phố Hồ Chí Minh, theo quốc lộ 1K, đi thẳng qua khỏi cầu Hóa An khoảng 200m thì đến ngã tư Bữu Long, rẽ trái là con đường nhựa có hai hàng cây rợp bóng mát dẫn đến khu du lịch Bữu Long. Đó là con đường Huỳnh Văn Nghệ - tên nhà quân sự - nhà thơ lớn của miền Đông Nam Bộ. Theo con đường này, qua khỏi ngã tư Bến Cá, qua chùa cổ Kim Long độ 200m quẹo phải theo con đường nhựa ngoằn ngoèo của xã Lợi Hòa đến bến phà Lợi Hòa, qua phà sang bên kia sông Đồng Nai là cù lao Bạch Đằng. Từ bến phà này theo con đường nhựa đến ngã ba trại cưa, quẹo trái theo đường liên xã thẳng đến trường trung học cơ sở Huỳnh Văn Lũy. Đây là địa phận tổ 19, ấp Tân Trạch, xã Mỹ Qưới xưa - nay là xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, là tổ quán họ Nguyễn. Nhà thờ họ Nguyễn nằm đối diện bên hông trường trung học cơ sở Huỳnh Văn Lũy. Sau nhà thờ họ là đồng mả tộc họ Nguyễn.

Ấp Tân Trạch hiện nay là một trong 6 ấp của xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, có quá trình hình thành lâu đời cùng với sự hình thành của vùng đất Đồng Nai.

clip_image002

Bản đồ xã Bạch Đằng

Hiện ấp có vị trí sau :

• Phía Bắc giáp ấp Điều Hòa.

• Phía Tây giáp ấp Tân Long.

• Phía Đông giáp sông Đồng Nai.

• Phía Nam giáp ấp An Chữ.

Ấp Tân Trạch nằm trên vùng đất cù lao Mỹ Qưới xưa - nay là xã Bạch Đằng – một rẻo đất phù sa nối tiếp như một con tàu bồng bềnh trên mặt nước sông Đồng Nai, tiềm ẩn bao di chỉ, hiện vật cổ xưa như Dốc Chùa, Gò Đá, cù lao Rùa… là những địa bàn sinh sống của người cổ cư trú cách đây từ 2000 đến 2500 năm. Vùng đất này được bao bọc và bồi đắp bởi sông Đồng Nai thành những giồng cao phù hợp với cây nông nghiệp và cây ăn quả.

Đầu thế kỷ XVI vùng đất màu mở này còn hoang vu, vô chủ, chưa ai đến khai phá. Trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn đã phản ánh tình hình trên như sau : “Ở đất Gia Định Đồng Nai, từ biển Cần Giờ, Lôi (Soài) Rạp, cửa Đại, cửa Tiểu trở vào toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm”(1)

Nhưng đến đầu thế kỷ XVII, vùng này trở nên sôi động với sự xuất hiện của lớp cư dân người Việt. Họ là lưu dân vùng Thuận Quảng, không chịu nổi chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài 175 năm đã làm cho đời sống nhân dân vô cùng lầm than cơ cực. Tất cả nhân tài vật lực đã bị vơ vét cùng kiệt để ném vào cuộc chiến tranh. Vào thời chúa Nguyễn Phúc Lan (1635 – 1648) dân vùng Quảng Bình – Thuận Hóa đã phiêu bạt xuống phương Nam. Chiến tranh càng khốc liệt thì làn sóng di cư ngày càng diễn ra liên tục, ồ ạt. Họ là những nông dân nghèo khổ, những người trốn sưu cao thuế nặng, những binh lính đào ngũ, những tù nhân bị lưu đày, những người giàu muốn đi tìm vùng đất mới để mở rộng cuộc sống. Họ đi bằng đường biển, dùng thuyền buồm hay ghe bầu. Rất ít người đi bằng đường bộ, vì đường bộ rất nguy hiểm. Họ đi lần hồi đến vùng Đồng Nai, ồ ạt nhất là sau khi chúa Nguyễn đã tạo ảnh hưởng đến vùng đất này vào cuối thế kỷ XVIII. Điểm dừng chân đầu tiên của di dân là Mô Xoài (Bà Rịa), vì vùng này nằm trên trục giao thông đường bộ từ Bình Thuận vào Nam lại nằm trên đường biển Ô Trạm rất thuận lợi cho thuyền bè cập bến. Từ Mô Xoài di dân theo thủy triều lên xuống đến vùng Đồng Nai. Những điểm định cư sớm nhất của cư dân là huyện Nhơn Trạch, Long Thành, Bến Gỗ, Bàn Lân, cù lao Tân Chánh, cù lao Phố, cù lao Ngô, cù lao Tân Triều. Những vùng này thu hút đông đảo người Việt đến

(1) Lê Quý Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, Quyển IV tờ 243a.

định cư vì nơi đây có nước ngọt tiện cho việc sinh hoạt. Để có cuộc sống ổn định, lưu dân phải đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt đầy sơn lam chướng khí :

“Đồng Nai xứ sở hải hùng

Dưới chân sấu lội, trên rừng cọp um”

Như vậy, lịch sử đã ghi nhận cù lao Tân Chánh (còn gọi là cù lao 6 làng)(1) trong đó có làng Tân Trạch là vùng dừng chân sớm nhất của những người di cư.

Khi xứ Đồng Nai tương đối đông người thì triều đình nhà Nguyễn cử Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính vào xây dựng tổ chức chính quyền, phân chia ranh giới để thành lập các dinh trấn phía Nam. Ông đã lấy đất Đồng Nai thành lập huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên, lấy vùng Sài Gòn – Gia Định lập huyện Tân Bình thuộc dinh Phiên trấn, rồi đặt ra phường, xã, thôn, ấp, định thuế đinh, thuế điền, lập đinh bạ, địa bạ.

Năm 1836, vua Minh Mạng cho lập địa bạ thì địa bạ thôn Tân Trạch được ghi như sau :

Tân Trạch thôn ở xứ Bồ lao Tân Trạch.

• Đông giáp địa phận thôn Điều Hòa, có lập cột gỗ làm giới

• Tây giáp hai thôn Bình Chữ và Tân Trúc, có rạch nhỏ làm giới, lại giáp thôn Bình Chữ Trung, có lập cột móc làm giới.

• Nam giáp sông lớn lấy giữa lòng sông làm giới.

• Bắc giáp địa phận thôn Bình Hưng có cột mốc làm giới.

Thực canh ruộng đất là 91.4.12.8

+ Điền tô : 64.4.0.3 (43 sở và các sư chùa Phước Điền ở thôn Bình Hưng đồng canh : 0.8.1.6.

+ Đất trồng dâu, mía 27.0.12.5 (122 sở)

+ Dân cư thổ : 2.5.0.0

+ Mộ địa một khoảnh(2)

Qua địa bạ thôn Tân Trạch xưa, nay là ấp Tân Trạch cho thấy Tân Trạch từ thế kỷ XIX đã là một đơn vị hành chánh có vị trí giới hạn, diện tích rõ ràng.

(1) Cù lao Tân Chánh có 6 làng : An Chữ, Bình Hưng, Bình Chữ, Điều Hòa, Tân Long, Tân Trạch). (2)Nguyễn Đình Đầu – Địa bạ Biên Hòa. NXB TP.HCM trang 314.

Thôn Tân Trạch tồn tại qua các thời kỳ lịch sử và thay đổi đơn vị hành chánh như sau :

- Từ năm 1863, là thời kỳ thuộc Pháp, Tân Trạch là một trong các làng thuộc tổng chánh Mỹ Trung, huyện Phước Chánh, phủ Phước Long.

- Từ 1867 – 1876 Tân Trạch vẫn thuộc huyện Phước Chánh, tổng Chánh Mỹ Trung, hạt Biên Hòa.

- Năm 1889 hạt đổi thành tỉnh thì Tân Trạch thuộc tổng Chánh Mỹ Trung, huyện Phước Chánh, tỉnh Biên Hòa.

- Từ năm 1965 – 1975 cù lao Tân Chánh được chia là 2 xã Mỹ Hòa và Mỹ Qưới, làng Tân Trạch trở thành ấp, thuộc tổng chánh Mỹ Trung, xã Mỹ Qưới, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Năm 1977 hai xã Mỹ Hòa và Mỹ Qưới được nhập lại thành xã Bạch Đằng, thì ấp Tân Trạch đổi là ấp 2. Đến năm 2006 ấp 2 đổi lại là ấp Tân Trạch, thuộc huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Vùng đất xã Bạch Đằng nói chung và ấp Tân Trạch nói riêng do bàn tay lao động của những người nông dân và nhân dân lao động nghèo khó từ nhiều nơi đã tụ tập về đây, đã lao động cật lực biến vùng đất hoang vu thành vùng đất màu mở, đồng ruộng phì nhiêu, cây lành trái ngọt, cảnh quang xinh đẹp bên cạnh dòng sông Đồng Nai thơ mộng. Bà con đã xây dựng tình làng nghĩa xóm, đã bảo vệ cuộc sống và bảo vệ quê hương. Chiến tranh đã xảy ra liên miên trên vùng đất này, khốc liệt nhất là hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Năm 1862 khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường đã mất vào tay thực dân Pháp theo hòa ước Nhâm Tuất 1862 thì nhân dân 3 tỉnh nói chung và Biên Hòa nói riêng phải chịu dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Nhân dân cù lao Mỹ Qưới vô cùng cơ cực lầm than : nào là thuế má nặng nề, phi lý (thuế thân). Bọn tề nguỵ luôn hạch sách, cướp bóc của nhân dân. Bọn thực dân Pháp đàn áp, sát hại những người yêu nước một cách dã man.

Kế thừa truyền thống bất khuất, dũng cảm của những người đi tìm tự do, nhân dân Mỹ Qưới xưa – Bạch Đằng ngày nay trong đó có nhân dân ấp Tân Trạch không chịu cảnh nô lệ đã vùng lên đấu tranh đòi quyền sống.

Mở đầu là những cuộc đấu tranh lẻ tẻ, tự phát với vũ khí thô sơ, tự tạo đánh thực dân Pháp theo lối du kích. Sau đó là phong trào thiên Địa Hội nổi lên. Các ông Năm Hy, Tư Hổ, Ba Hậu, Hai Lực là dân làng Tân Trạch tham gia tích cực vào tổ chức này. Các ông luyện tập võ nghệ, tích lũy lương thực đánh thành Sơn Đá(1) của Pháp ở thành phố Biên Hòa.

Nhóm thanh niên Tân Trạch thì phá khám lớn Sài Gòn. Dù phong trào này tồn tại không lâu song đã tạo được tiền đề cho những cuộc đấu tranh sau này.

Từ khi có Đảng, nhân dân toàn xã Mỹ Qưới đấu tranh chống thực dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ông Nguyễn Văn Nghĩa là đảng viên đầu tiên của quận Tân Uyên được phân công về xã tuyên truyền vận động nhân dân theo đảng và cùng với ông Huỳnh Văn Lũy (đảng viên) tổ chức lực lượng thanh niên và huấn luyện quân sự cho thanh niên theo sự chỉ đạo của ông Huỳnh Văn Nghệ. Ông Lê Cao Đa làm đội trưởng đội Thanh niên Tiền phong ấp Tân Trạch.

Dưới sự chỉ đạo của ông Huỳnh Văn Nghệ, các đảng viên đầu tiên của địa phương đã phát động một phong trào chính trị rộng lớn, chuẩn bị lực lượng quân sự cùng với cả nước giành lại được chính quyền xã trong Cách Mạng Tháng Tám năm 1945.

Nhưng nhân dân xã Mỹ Qưới hưởng độc lập không bao lâu thì ngày 22 tháng 10 năm 1945, Pháp được sự giúp sức của đồng minh, chiếm lại nước ta. Nhân dân cù lao Mỹ Qưới theo tiếng gọi của Hồ Chủ Tịch đứng lên dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng làm cuộc kháng chiến 9 năm đánh thực dân Pháp tái xâm lược.

Đây là khoảng thời gian mà nhân dân trong ấp Tân Trạch nói riêng và nhân dân xã nói chung chịu nhiều đau thương mất mát. Càng thất bại, chúng càng tăng cường xây đồn bót, điên cuồng sát hại nhân dân. Đình Tân Trạch bị thực dân Pháp chiếm, chúng bắt nhân dân làm xâu để xây dựng đình thành một căn cứ quân sự của chúng để kiểm soát gắt gao nhân dân trong ấp, trong xã và cũng để kịp thời dập tắt những cuộc đấu tranh của nhân dân ta.

Chúng còn xây bót Mỹ Qưới tại ấp Tân Trạch (nay là trường trung học cơ sở Huỳnh Văn Lũy). Bến đò Bót là nơi chứng kiến đầu lìa khỏi cổ của những người dân yêu nước và những người dân vô tội. Khi những tên Việt gian nhìn mặt gật đầu thì lập tức chúng cho cắt cổ thả trôi sông. Khét tiếng là thằng Tây Roi-dóc chuyên đánh người bằng roi đánh ngựa và hãm hiếp phụ nữ. Dân trong xã ai không chịu nổi thì bỏ xứ đi nơi khác làm ăn hoặc thoát ly gia đình vào chiến khu theo cách mạng. Người ở lại vừa sản xuất vừa chiến đấu, nuôi giấu ủng hộ cán bộ cách mạng.

(1) Dịch từ chữ Pháp le soldat là lính tráng.

Trong 9 năm kháng chiến hàng trăm người dân vô tội bị giặc sát hại, nhiều phụ nữ bị hãm hiếp, nhiều nhà cửa bị đốt, tài sản bị cướp bóc, nhiều nhà yêu nước bị giam cầm, bị tra tấn dã man. Song với lòng căm thù giặc, với lòng yêu nước nồng nàn lại được sự lãnh đạo của chi bộ, dưới sự chỉ đạo của nhà quân sự đại tài là ông Huỳnh Văn Nghệ và sự đoàn kết của toàn dân trong xã góp phần thắng lợi trong trận Điện Biên Phủ. Hiệp định Genève được ký kết vào năm 1954, mọi người trước tản cư nay vui mừng trở về quê cũ làm ăn. Nhưng Hiệp định Genève ký chưa ráo mực thì Mỹ nhảy vào thay thế Pháp phá hoại Hiệp định biến Miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Nhân dân cả nước nói chung và xã Bạch Đằng nói riêng phải tiếp tục đấu tranh với kẻ thù lớn mạnh có vũ khí tối tân nhất thế giới lúc bấy giờ. Chúng dùng ấp chiến lược, thuốc khai hoang để truy lùng, tiêu diệt những người làm cách mạng. Chúng tăng cường lực lượng quân sự, vũ khí tối tân thực hiện chiến tranh cục bộ hòng giành thắng lợi nhanh chóng. Với chủ trương giết lầm còn hơn bỏ sót, chúng gieo rắc sự chết chóc, gây khó khăn trong cuộc sống, trong chiến đấu của nhân dân trong xã. Nhưng không thế lực nào làm nhục ý chí đấu tranh của nhân dân ta để rồi sau 20 năm đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân trong xã cũng giải phóng được xã nhà góp phần thắng lợi chung với cả nước vào chiến dịch mùa xuân năm 1975.

Từ khi hòa bình lập lại đến nay hơn 30 năm, nhân dân ấp Tân Trạch đã khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước xây dựng ấp đạt danh hiệu là ấp văn hóa.

Ấp có diện tích là 178ha. Dân số 339 hộ gồm 1.409 nhân khẩu. Kinh tế chính của ấp là nông nghiệp và lập vườn trồng cây ăn trái. Bưởi là đặc sản của quê hương.

Hiện nay theo kế hoạch của xã là xây dựng thương hiệu bưởi Bạch Đằng. Nhân dân trong ấp chuyên canh trồng bưởi. Kinh tế phụ của ấp là làm dịch vụ và buôn bán nhỏ.

Ấp có một đình cổ là đình Tân Trạch, được xây dựng cách nay hơn 150 năm, được sắc phong của vua Tự Đức năm 1892. Đình được công nhận là di tích văn hóa của tỉnh.

Ấp có chùa Huê Lâm. Vào các ngày Tam Ngươn, Tứ quí dân trong ấp đến dự, cầu nguyện cho quốc thái dân an, không phân biệt người có đạo hay không có đạo. Ấp không có nhà thờ, Thánh thất, chỉ có một nhóm Tin lành. Nhân dân phần lớn theo đạo thờ ông bà.

Ấp Tân Trạch có trường trung học cơ sở Huỳnh Văn Lũy, có trạm y tế, có nước máy sạch, điện nước đầy đủ, giao thông thủy, bộ thuận tiện. Hiện nay ấp nằm trong kế hoạch của xã là xây dựng nông thôn mới.

II./ NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DÒNG HỌ

1./ Truy tìm nguồn gốc dòng họ :

Ông tổ họ Nguyễn có mặt tại ấp Tân Trạch bao giờ con cháu ông không ai biết. Dòng họ cũng không có tài liệu nào cho biết lai lịch của ông bà thủy tổ của mình, không có gia phả cổ hay di chúc để lại cho con cháu. Mộ ông bà tổ có bia song là mộ mới dựng, trên bia chỉ có họ tên, không có ngày tháng, năm sinh, năm mất.

Việc truy tìm cội nguồn họ Nguyễn phải dựa vào thông tin truyền ngôn của dòng họ hay người lớn tuổi trong ấp, khảo sát mồ mả, nghiên cứu thêm giấy tờ thuận phân đất do bà tổ để lại.

Việc truy tìm dòng họ được tiến hành như sau :

a.) Gặp gở dòng họ :

Để có được thông tin từ dòng họ, ngày 4/10/2009, tổ lập gia phả chúng tôi được ông Nguyễn (Lê) Hồng Phương (hậu duệ đời IV, chi I) người đại diện dòng họ đứng ra lập gia phả này, đưa về nhà thờ họ tộc tại ấp Tân Trạch, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để gặp gỡ hậu duệ các chi của họ Nguyễn. Tại đây chúng tôi gặp ông Nguyễn Văn Thức (hậu duệ đời IV, chi III) là người cao tuổi nhất trong họ, hiểu biết nhiều về dòng họ mình. Ông Thức nói về ông bà tổ mình như sau “Chúng tôi chỉ biết tên ông tổ chúng tôi là Nguyễn Văn Điện nhưng không biết ông từ đâu đến đây lập nghiệp. Còn bà tổ thì chúng tôi được nghe nói lại là người ở tại ấp Tân Trạch, có nhiều đất đai ở ấp này. Bà tên là Nguyễn Thị Thạnh tự Nhì. Năm sinh năm mất của bà không ai biết, con cháu chỉ biết ông mất sớm lúc bà mới 38 tuổi”. Nhìn lên bàn thờ tổ, chúng tôi thấy trên tấm liễn thờ có ghi tên phả hệ tộc Nguyễn 3 đời : tên ông tổ là Nguyễn Văn Điện và bà tổ là Nguyễn Thị Thạnh (tự Nhì) ở trên cùng – Bên dưới ông bà tổ là họ tên hậu duệ đời II và III. Như vậy con cháu họ Nguyễn đã xác nhận ông tổ của mình là ông Nguyễn Văn Điện.

Để chính xác hơn chúng tôi khảo sát mộ ông bà tổ.

b.) Khảo sát đồng mả họ tộc :

Chúng tôi ra thăm đồng mả họ tộc phía sau nhà thờ họ. Theo hướng dẫn của ông Nguyễn Văn Thức chúng tôi đến mộ ông bà tổ, thì thấy trên mộ bia ông tổ, tên ông được ghi là Nguyễn Văn Điện và bà tổ Nguyễn Thị Thạnh tự Nhì. Năm sinh, năm mất trên mộ bia không có ghi. Như vậy, qua thông tin của dòng họ, qua khảo sát mồ mả họ tộc và bản tóm tắt gia phả ba đời họ Nguyễn đều xác định người cao nhất của dòng họ Nguyễn ở ấp Tân Trạch là ông Nguyễn Văn Điện và vợ ông là Nguyễn Thị Thạnh tự Nhì nên tạm gọi ông là ông tổ đời một. Chúng tôi muốn tìm đời cao hơn nên nghiên cứu thêm tờ “Thuận phân đất” do ông Nguyễn Hữu Thoại hậu duệ đời IV chi IV cung cấp.

c.) Nghiên cứu tờ “Thuận phân đất” :

Qua luật thừa tự đất đai chúng ta có thể biết được đời cao hơn người thừa tự. Do vậy chúng tôi nghiên cứu tờ “Thuận phân đất” do con cháu ông Nguyễn Văn Lai thực hiện năm 1957 để tìm người cha của ông Nguyễn Văn Điện.

Qua tờ “Thuận phân đất” thì chủ sở hữu đất là ông Nguyễn Văn Lai – cha của bà Nguyễn Thị Thạnh tự Nhì. Con cháu ông Nguyễn Văn Lai đứng ra chia đất của ông ở ấp Tân Trạch thành các phần bằng nhau cho các con. Bà Nguyễn Thị Thạnh được một phần có diện tích là 0,560ha. Bà Thạnh qua đời để lại cho con trai trưởng là ông Nguyễn Văn Trà. Ông Trà qua đời để cho con trai đầu lòng là ông Nguyễn Văn The. Ông The bán lại cho ông Nguyễn Văn Mít (đời III chi IV). Ông Mít qua đời để lại cho con là ông Nguyễn Hữu Thoại. Hiện nay ông Thoại cất nhà sinh sống trên mảnh đất này. Như vậy đất này bà tổ thừa kế của cha mình không phải ông Nguyễn Văn Điện thừa kế của cha mình. Do vậy, qua tờ “Thuận phân đất” này không tìm được đời cao hơn ông Nguyễn Văn Điện, nên tạm chấp nhận ông Điện vẫn là ông tổ đời một của họ Nguyễn ở ấp Tân Trạch. Sau này, con cháu có điều kiện sẽ tìm lên trên ông tổ mình.

Ông tổ từ đâu đến ấp Tân Trạch sinh cơ lập nghiệp hay ông được sinh ra trên đất Tân Trạch thì con cháu ông không ai biết được. Có thông tin cho rằng ông có người vợ thứ nhất đã qua đời, mộ còn ở Tân Trạch nhưng kiểm tra lại thông tin này thì không có cơ sở.

Tân Trạch là một vùng đất được hình thành sớm. Người Việt từ Đàng Ngoài vào khai khẩn vùng này từ thế kỷ XVII. Tổ tiên ông Điện có thể từ vùng đất Quảng vào đất Đồng Nai đã định cư đâu đó trên đất cù lao Mỹ Qưới hay cù lao Tân Triều hoặc ở huyện Nhơn Trạch hay Bến Gỗ là những vùng đất có người Việt định cư sớm ! Rất tiếc ông qua đời sớm nên con cháu không ai biết được nguồn gốc ông tổ mình.

Vì không biết năm sinh, năm mất của ông nhưng tính theo cách tính của Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả thì có thể biết được ông được sinh ra trong bối cảnh nào của lịch sử dân tộc. Theo các tính của Trung tâm thì mỗi con cách nhau 2 năm, mỗi thế hệ cách nhau 25 năm. Căn cứ vào năm sinh của ông Nguyễn Văn Trà ghi trên mộ bia là năm 1885 là con trai thứ năm thì năm sinh của ông tổ vào khoảng năm 1853 (Tự Đức thứ 5). Nếu ông tổ ở nơi khác đến Tân Trạch lấy vợ và định cư ở đây thì ít nhất ông cũng phải 20 tuổi, vào khoảng năm 1873 (thời Tự Đức thứ 26). Đây là thời điểm lịch sử mà triều đình Tự Đức đã thừa nhận chủ quyền của 6 tỉnh Nam Kỳ cho thực dân Pháp và thực dân Pháp một mặt khai thác, bóc lột nhân dân miền Nam, một mặt tìm cách đưa quân ra đánh miền Bắc.

Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Thức (hậu duệ chi III đời IV) thì trong thời kỳ này ông bà tổ sống bằng nghề trồng mía, nấu đường, làm ruộng. Ông bà có lò đường trên đất nhà. Cuộc sống tương đối ổn định. Trong quá trình làm ăn, sinh sống ông bà có dư giả, mua thêm đất cho các con ở ấp Tân Trạch. Sau này ông mất, bà chia đều đất đã mua cho các con, mỗi người 9 sào. Ông mất không rõ năm nào. Hài cốt được chôn trên đất nhà ở ấp Tân Trạch, cách đất đồng mả gia tộc hiện nay 100 mét.

Bà tổ tên Nguyễn Thị Thạnh tự Nhì, quê quán tại làng Tân Trạch. Bà cùng ông quản lý lò đường và lo nội trợ trong gia đình. Khi ông qua đời một mình bà quản lý hết việc nấu đường, làm ruộng, sắm ghe cho con chở đường, đậu phộng đi xuống miền Tây mướn nhân công tại chỗ làm kẹo đậu phộng bán rồi mua gạo về quê bán cho bà con trong xã. Bà mất năm nào, con cháu không rõ, chỉ biết ông qua đời bà mới 38 tuổi. Bà ở vậy thủ tiết thờ chồng nuôi dạy và dựng vợ gã chồng cho các con tử tế. Bà mất vì bệnh già. Mộ bà cạnh mộ ông tại đất nhà ở Tân Trạch. Đất này sau bán lại cho người khác nên năm 2003 các cháu hốt cốt ông bà về thờ nơi nhà thờ họ. Năm 2005, cốt ông bà được táng xuống đồng mả của gia tộc sau nhà thờ họ và xây mộ ông bà khang trang. Giỗ ông bà trước kia do ông Nguyễn Văn Quài (hậu duệ đời III chi IV) giỗ. Ông Quài qua đời con là ông Nguyễn Văn Mít giỗ. Hiện nay con cháu tập họp lại nhà thờ họ vào ngày giỗ ông là 25/5 âm lịch, ngày giỗ bà 12/12 âm lịch để giỗ ông bà. Ông Nguyễn (Lê) Hồng Phương (hậu duệ đời IV, chi I) đại diện dòng họ khấn vái trong ngày giỗ. Sau đó hậu duệ các chi lần lượt đến thắp hương. Ông bà có 8 người con, chết nhỏ 3 người con đầu, còn 5 người gồm 4 trai và 1 gái theo thứ tự sau :

Thứ hai  : chết nhỏ.

Thứ ba  : chết nhỏ

Thứ tư  : chết nhỏ

Thứ năm  : Nguyễn Văn Trà

Thứ sáu  : Nguyễn Văn Đọt

Thứ bảy  : Nguyễn Văn Chi

Thứ tám  : Nguyễn Văn Lành

Thứ chín  : Nguyễn Thị Thặng

Người con gái được gả chồng, sinh con chuyển sang họ khác. Bốn người con trai lấy vợ lập ra 4 chi :

Chi Thứ nhất: Nguyễn Văn Trà có hai đời vợ có 7 người con và 1 con gái ngoài giá thú. Tất cả gồm 5 con trai và 3 con gái

Chi Thứ hai : Ông Nguyễn Văn Đọt, có hai đời vợ có 2 dòng con gồm 3 người : 2 trai và 1 gái.

Chi Thứ ba : Ông Nguyễn Văn Chi lấy vợ có 3 con gồm 2 trai và 1 gái.

Chi Thứ tư : Ông Nguyễn Văn Lành có 4 con trai

Tất cả 4 chi truyền tử lưu tôn đến nay là đời thứ VI.

2./ Sự phát triển của dòng họ :

Phân tích bốn chi họ Nguyễn để thấy được sự phát triển của dòng họ từng chi về số lượng, về kinh tế gia đình về việc học tập của con cháu ngỏ hầu phát huy được mặt tốt và mặt hạn chế cần được xây dựng.

Chi thứ nhất : trưởng chi là ông Nguyễn Văn Trà. Ông có 2 đời vợ, có 2 dòng con và 1 con ngoại hôn. Tất cả gồm 5 trai và 3 gái. Người con trai đầu lòng là Nguyễn Văn The có một con gái, không có con trai nối dõi. Người con trai thứ tư là Nguyễn Văn Chè và con trai thứ năm là Nguyễn Văn Đậm thì vô tự. Nối dòng cho chi này chỉ có ông con trai thứ ba là Nguyễn Văn Thé và người con trai thứ sáu là Nguyễn Văn Thang. Ông Thé lấy vợ có hậu duệ đến nay là đời thứ VI. Còn ông Thang – cha ông Nguyễn (Lê) Hồng Phương là người dựng gia phả này, ông có hai đời vợ. Hiện nay chỉ biết hậu duệ của ông đến đời V. Ông và vợ đời 2 tham gia cách mạng suốt hai thời kỳ kháng chiến và cuộc đời cách mạng được thể hiện trong quyển hồi ký : “Giặc đến nhà” (1) rất sinh động.

Toàn chi có 46 người chết nhỏ 1 còn lại 28 trai và 17 gái, số qua đời là 10 người (8 trai và 2 gái). Số còn sinh tiền nối dòng song số lượng chi này khá đông. Hậu duệ ông Thé là những người nông dân, người buôn bán nhỏ, những công nhân, đời sống tạm ổn định. Trình độ học vấn không cao, không có ai tốt nghiệp đại học. Hậu duệ ông

(1) Yên Tri ghi, nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai năm 2003.

Thang đời sống có khá hơn. Con cháu dòng lớn, cuộc sống khá ổn định. Đa số con dòng lớn sống về nghề khai thác đá. Con dòng thứ hai là những cán bộ cao cấp của đảng và Nhà nước ở tỉnh và Thành phố Hồ Chí Minh, có điều kiện học hành nên tất cả đều tốt nghiệp Đại học (6 người).

Chi thứ hai : Ông Nguyễn Văn Đọt là trưởng chi. Ông phải đi lính cho Pháp sang Châu Phi (thuộc địa của Pháp) để đánh Đức trong chiến tranh Thế chiến thứ II (1939 – 1945). Sau khi mãn hạn, ông được Pháp đưa về Việt Nam rồi về quê tham gia kháng chiến 9 năm. Cho nên dù ông có hai đời vợ song số con cũng chỉ có 3 người : 2 trai trai, 1 gái. Hai con trai ông là Nguyễn Văn Trăm và Nguyễn Văn Thiên, lập gia đình tạo hậu duệ cho chi II. Ông Nguyễn Văn Trăm không có cháu nội trai nên không có người nối dòng (phạp tự). Ông Nguyễn Văn Thiên có hậu duệ đến đời thứ VI. Toàn chi có 28 người trong đó có 13 trai và 15 gái. Số người qua đời là 6 (5 trai, 1 gái). Số còn sinh tiền là 22 người (14 gái, 8 trai). Tuy số lượng chi ít song đến đời V thì kinh tế khá hơn, con cháu có điều kiện học hành tốt hơn. Đời V đa số tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm dạy học, làm công nhân, làm việc ở công ty xuất khẩu.

Ông Nguyễn Văn Thiên tham gia cách mạng đã hy sinh. Vợ thủ tiết thờ chồng chăm lo nuôi dạy con.

Chi thứ III : Trưởng chi là ông Nguyễn Văn Chi. Ông lập gia đình với bà Phạm Thị Phải, có 3 con : 2 trai và 1 gái. Hai con trai là ông Nguyễn Văn Trí và Nguyễn Văn Độ lập gia đình tạo hậu duệ cho chi III. Ông Trí có đến 4 con trai, tạo ra hậu duệ đông đảo đến đời VI. Hậu duệ ông Độ chỉ mới đến đời thứ V.

Toàn chi có 60 người, chết nhỏ 3 còn 57 người (30 trai và 27 gái) Số qua đời là 10 người (9 trai, 1 gái). Số còn lại là 47 người (21 trai, 26 gái). Đây là chi có số lượng đông nhất trong các chi. Hậu duệ ông Trí phát triển mạnh mẽ về số lượng trong các chi. Vợ chồng ông Trí chăm lo nuôi dạy con nên các con học lực hầu hết tốt nghiệp lớp 12, có nghề nghiệp tử tế. Hậu duệ ông Độ chết nhỏ nhiều, đời sống kinh tế khó khăn, ít học do gia đình không quan tâm đến việc học hành và hướng nghiệp cho con.

Chi thứ IV : trưởng chi là ông Nguyễn Văn Lành. Ông lập gia đình với bà Đỗ Thị Huê, có 4 con trai. Con trai út là ông Nguyễn Văn Dừa thoát ly gia đình theo cách mạng và đã hy sinh khi còn độc thân nên không có con nối dòng. Ba người con trai lập gia đình nối dòng cho chi này. Ông Nguyễn Văn Quài và ông Nguyễn Văn Kính lập gia đình có hậu duệ đến đời thứ VI. Riêng ông Nguyễn Văn Mít – con trai áp út lập gia đình có hậu duệ đến đời thứ V.

Toàn chi IV có 59 người : chết nhỏ 8, còn lại 51 người (22 trai và 29 gái). Số qua đời là 10 (9 trai, 1 gái), còn sinh tiền là 41 người trong đó có 28 gái và 11 trai.

Lực lượng chi này đông đảo sau chi III, nhưng chết nhỏ cũng nhiều. Con gái nhiều hơn con trai.

Hậu duệ ông Quài và ông Kính có đời sống khó khăn. Hậu duệ ông Mít bắt đầu đời IV kinh tế gia đình phát triển. Ông Nguyễn Hữu Nhiệm nhờ biết cần kiệm, có ý chí quyết tâm làm giàu bằng lao động chân chính, biết kết hợp những bài học ở trường vào cuộc sống, biết đúc rút kinh nghiệm và sáng tạo trong lao động vượt qua chính mình để nâng cuộc sống mình khá hơn đồng thời tương trợ nhau trong gia đình và tạo điều kiện để các con học hành tốt hơn. Chi này có 3 người tham gia cách mạng : ông Nguyễn Văn Đọt, Ông Nguyễn Văn Mít và ông Nguyễn Văn Đức (Nguyễn Thanh Hải).

Trong 4 chi, chi nào cũng có con trai nối dòng. Phát triển về số lượng đông nhất là chi III (60 người) tiếp đó là chi IV. Chi I và chi II số lượng ít do chết nhỏ nhiều, không có con trai nối dõi và vô tự.

Toàn bốn chi có 199 người, chết nhỏ 12, qua đời 41, hiện còn sinh tiền là 146 người trong đó có 97 con trai và 89 con gái. Tất cả tạo thành một cộng đồng khoẻ mạnh, lao động trong nhiều lãnh vực xã hội, không ai mắc bệnh hiểm nghèo.

Đây là dòng họ có quy mô trung bình. Đa số hậu duệ các chi sống tập trung tại tổ quán là ấp Tân Trạch và các ấp lân cận trong xã Bạch Đằng. Một số gia đình làm việc ở thành phố Biên Hòa, thành phố Hồ Chí Minh và một số gia đình lập nghiệp ở Tân Lập, Thị trấn Uyên Hưng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Dù ở đâu con cháu cũng hướng về tổ quán và bà con của quê mình, gặp nhau trong những ngày giỗ tổ và thăm hỏi nhau lúc ốm đau, bệnh tật.

III./ HÔN NHÂN VÀ XÂY DỰNG THÂN - THÍCH :

Hôn nhân là quan hệ giữa vợ chồng sau khi đã kết hôn. Hôn nhân tạo ra gia đình là nơi con người được sinh ra và lớn lên để có các thế hệ nối tiếp, tạo ra dòng họ duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội.

Qua khảo sát họ Nguyễn ở ấp Tân Trạch từ thế hệ thứ I đến thế hệ thứ V thì được biết họ Nguyễn đã quan hệ hôn nhân với họ Nguyễn, họ Phạm, họ Lê, họ Hà, họ Ngô, họ Đỗ, họ Võ, họ Huỳnh, họ Phan, họ Cao, họ Thiều, họ Trương, họ Lưu đã tạo ra các thế hệ huyết thống gồm 199 người là một lực lượng lao động gồm nhiều thành phần trong xã hội từ trung nông, bần nông, tiểu thương, tiểu chủ, công nhân, trí thức, cán bộ của đảng và nhà nước. Nhìn chung những gia đình họ Nguyễn là những gia đình bình dân, tiếp thu lễ giáo phong kiến như tinh thần đạo đức của dân tộc. Quan hệ hôn nhân đời 1, 2, 3 theo lễ giáo phong kiến nhưng không khắt khe như gia đình nho học nệ cổ. Hôn nhân họ Nguyễn ở các thế hệ này do cha mẹ định đoạt. Bà tổ đời I đứng ra dựng vợ gả chồng cho các con nhưng không yêu cầu phải môn đăng hộ đối, không phân biệt thành phần giai cấp. Chính sự thông thoáng trong hôn nhân đã đưa đến trường hợp con ngoại hôn (con ông Nguyễn Văn Trà) và cũng có trường hợp có người thay đổi đến 3 lần vợ (ông Nguyễn Văn The).

Đến đời thứ IV và thứ V trưởng thành thì phụ nữ được giải phóng. Quan hệ hôn nhân họ Nguyễn là tự nguyện, tiến bộ. Hôn nhân dựa trên tình yêu chân chính được luật pháp bảo vệ quyền kết hôn và ly hôn nhưng cũng có vai trò tích cực của cha mẹ và người thân, có cưới hỏi đàng hoàng.

Hầu hết các con dâu họ Nguyễn gốc nông dân và nhân dân lao động, một số thuộc gia đình cách mạng. Các cô dâu họ Nguyễn biết lo xây dựng gia đình mình, biết phụng thờ gia đình nhà chồng, lo ma chay giỗ chạp nhà chồng đàng hoàng. Tiêu biểu là bà tổ đời một. Ông tổ mất sớm lúc bà 38 tuổi, bà thủ tiết thờ chồng, ở vậy nuôi con, quản lý lò đường, hướng dẫn các con làm ăn, dạy dỗ và dựng vợ gã chồng cho con tử tế ! Bà Lê Thị Não (vợ ông Nguyễn Văn Thang hậu duệ đời III, chi I) có 5 con, vừa làm cách mạng, vừa tảo tần ngược xuôi mua bán để nuôi mình, nuôi dạy con, nuôi chồng làm cách mạng, lúc bị tù, chăm sóc chồng lúc lâm bệnh và chôn cất chồng trong tình huống khó khăn. Sau khi hòa bình lập lại, bà nhắc nhở con tìm về quê nội và họ hàng bên nội và cúng giỗ cha mẹ chồng. Trong hoàn cảnh thoát ly làm cách mạng, bà luôn quan tâm đến việc dạy dỗ con, cho con ăn học đàng hoàng. Bà Lê Thị Khánh, vợ ông Nguyễn Văn Thiên (hậu duệ đời IV, chi II), chồng thoát ly làm cách mạng bị thực dân Pháp giết lúc bà mới mang thai con thứ tư và đứa con thứ ba mới 5 tuổi. Bà tảo tần buôn gánh bán bưng ngược xuôi từ chợ Bến Cá đến Lợi Hòa rồi Mỹ Qưới để nuôi con ăn học tử tế. Con trai út của bà là ông Nguyễn Hữu Phước, đỗ tú tài II, hiện là Hiệu phó trường trung học cơ sở Huỳnh Văn Lũy tại ấp Tân Trạch. Thời đó, góa chồng mà cho con đi học là rất hiếm! Bà Cao Thị Côi (vợ ông Nguyễn Văn Minh Châu đời IV chi III, chồng mất sớm bà ở vậy thờ chồng nuôi con ăn học, dựng vợ gã chồng cho con tử tế. Bà Võ Thị Sang, vợ liệt sĩ Nguyễn Văn Đức (tự Nguyễn Thanh Hải hậu duệ đời V chi IV) ông thoát ly theo cách mạng lúc bà có thai được 4 tháng. Ông hy sinh năm 1967, lúc con gái 5 tuổi, bà ở vậy nuôi con khôn lớn, gã chồng cho con gái. Hiện giờ già yếu bà vẫn ở một mình thờ chồng, tự lao động kiếm sống, tới lui thăm con gái và cháu ngoại. Đó là một số người dâu tiêu biểu của các chi. Hầu hết các cô dâu họ Nguyễn đều là dâu hiền. Các chú rể là những người rể thảo, đối xử tử tế với bên vợ. Họ Nguyễn không ai sùng bái một tôn giáo nào, chỉ coi trọng đạo hiếu, chăm lo việc thờ cúng tổ tiên, lập đồng mả cho gia tộc. Mỗi năm đến ngày giỗ ông bà tổ con cháu họp mặt tại nhà thờ tổ để giỗ. Hằng ngày có sự phân công trong con cháu đến dọn dẹp, hương khói cho ông bà tổ tại nhà thờ họ. Mỗi gia đình đều có bàn thờ gia tiên thờ ông bà nhà mình, có sổ ghi các ngày giỗ để con cháu giỗ cho đúng ngày. Ngày tết, ngày thanh minh con cháu lo dẫy mả và cúng tổ tiên mình nghiêm túc.

Dòng họ Nguyễn không có ai khoa bảng, không ai đỗ đạt làm quan. Đời II có người biết chữ nho nhưng không nhiều. Việc giáo dục con cái theo mặt tích cực của nho giáo như dạy con biết hiếu thảo với cha mẹ biết kính trên nhường dưới, xây dựng gia đình hòa thuận. Gia đình cách mạng thì bồi dưỡng tư tưởng cách mạng cho con. Việc khuyến học, khuyến tài mỗi gia đình tự lo lấy, chưa tổ chức được cho cả dòng họ. Cần quan tâm xây dựng dòng họ văn hóa, tổ chức khuyến học, khuyến tài cho cả dòng họ.

IV./ QUÁ TRÌNH SINH SỐNG CỦA HỌ NGUYỄN VÀ SỰ ĐÓNG GÓP CỦA DÒNG HỌ QUA HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN.

1.) Việc sinh sống của họ Nguyễn qua các thế hệ.

Sự trưởng thành của ông bà tổ đời I ở ấp Tân Trạch vào cuối thế kỷ XIX (1873) thì vùng đất Nam Bộ đã dưới ách thống trị trực tiếp của thực dân Pháp rồi tiếp theo đó là đế quốc Mỹ thay thế. Chính sách cai trị bóc lột của thực dân cũ và sự thâm độc của chính sách thực dân kiểu mới rồi hai cuộc chiến tranh diễn ra ác liệt trên vùng đất này làm cho nhân dân vô cùng điêu đứng. Ông bà tổ đời I và các thế hệ 2, 3, 4 phải vừa lao động vừa chiến đấu để tồn tại và phát triển.

Ông bà tổ đời I và các con đời II sống bằng nghề mía ruộng. Tuy lao động có vất vả song cuộc sống khá ổn định. Ông bà còn mua thêm cho các con mỗi người được 9 sào kể cả con gái.

Đời III và IV con cháu đông hơn cuộc sống con cháu có khó khăn hơn. Một số tiếp tục nghề mía ruộng, một số đi ghe chở cát, buôn bán, một số làm mướn quanh năm. Đời V trưởng thành thì hòa bình lập lại, con cháu có điều kiện học hành tốt hơn. Con cháu họ Nguyễn làm nhiều nghề khác nhau : có người vẫn làm mướn, có nhiều người làm công nhân, có người dạy học, có người làm tài xế hay khai thác đá, làm thợ hồ hoặc chăn nuôi heo, trồng rừng hay làm y tá, có người là cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước con ông Thang, (đời IV). Nhìn chung hầu hết con cháu họ Nguyễn đều có công ăn việc làm, không ai làm gì có hại đến uy tín và danh dự của dòng họ. Một số lao động ở nông thôn cũng có chút rượu trà. Song đó cũng là đặc điểm cuộc sống của người nông dân Nam Bộ.

2.) Sự đóng góp của dòng họ cho quê hương đất nước :

Dưới sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp, đời I, II của họ Nguyễn là nhân chứng của lịch sử vừa là nạn nhân của chế độ thực dân chịu thuế má sưu dịch nặng nề, làm bia đở đạn cho thực dân Pháp. Ông Nguyễn Văn Đọt (đời II) bị thực dân Pháp bắt phải đi lính sang tận Châu Phi (thuộc địa của Pháp) đánh Đức trong thế chiến thứ II (1939 – 1945). Đời III và IV trưởng thành thì cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Chi thứ I ông Nguyễn Văn Chè cùng em là Nguyễn Văn Thang (tự Nhàn) tham gia kháng chiến từ năm 1945. Riêng ông Thang (tự Nhàn) thoát ly làm cách mạng qua hai cuộc kháng chiến và hy sinh năm 1974 được công nhận liệt sĩ.

Chi thứ II, chi IV có ông Nguyễn Văn Thiên, Nguyễn Văn Mít, Nguyễn Văn Dừa thoát ly theo cách mạng. Ông Thiên, ông Dừa hy sinh, riêng ông Dừa được công nhận liệt sĩ. Ông Mít bị bệnh được tổ chức cho về hoạt động tại địa phương qua hai cuộc kháng chiến. Ông Thiên bị giặc giết mất xác, không tìm được người xác nhận quá trình công tác. Nguyễn Văn Đức (Nguyễn Thanh Hải) tham gia chống Mỹ và đã anh dũng hy sinh trở thành liệt sĩ. Cháu bà Nguyễn Thị Thặng (đời II) là bà Lê Thị Tố Nga cũng trở thành liệt sĩ chống Mỹ.

Khi hòa bình lập lại, con cháu có điều kiện lao động xây dựng quê hương. Ông Nguyễn Hữu Nhiệm đã có nhiều sáng tạo trong lao động trong công việc chăn nuôi heo, trồng rừng cho tỉnh nhà. Ông Nguyễn (Lê) Hoàng Quân, ông Nguyễn (Lê) Hồng Phương, Nguyễn Minh Hùng là cán bộ tốt đóng góp cho việc xây dựng đảng và chính quyền ở tỉnh và Thành phố, quan tâm đến việc tu bổ đình làng ở quê nhà.

III./ ĐẶC ĐIỂM CỦA DÒNG HỌ

Ông tổ họ Nguyễn đã lập nghiệp ở ấp Tân Trạch, xã Mỹ Qưới, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) truyền tử lưu tôn đến nay là đời VI đã tạo được một cộng đồng họ Nguyễn gần 200 người. Qua quá trình lao động và chiến đấu chống ngoại xâm và xây dựng đất nước đã hình thành những phẩm chất đạo đức như sau:

- Con cháu họ Nguyễn là những người nông dân, nhân dân lao động cần cù, có lối sống giản dị nên dù ở cương vị nào cũng giữ được sự chân thật, vui vẻ, hiếu khách giữ được tình làng nghĩa xóm, chia sẻ kịp thời với bà con ở quê mình những khó khăn trong cuộc sống, trong xây dựng quê hương, trong việc tu sửa đình làng, con cháu dù bận rộn, dù ở xa song việc cúng đình không thể thiếu mặt. Đó là những điều đáng quý cần duy trì.

Một đặc điểm nữa là việc giữ gìn đạo hiếu. Con cháu họ Nguyễn dù ở hoàn cảnh nào vẫn coi trọng việc phụng thờ tổ tiên, hướng về cội nguồn. Trong chiến tranh một số con cháu có cha mẹ làm cách mạng sống xa tổ quán, không rõ cội nguồn, dòng họ như anh em ông Nguyễn (Lê) Hồng Phương. Nhưng khi hòa bình lập lại lo tìm về quê cha đất tổ, vấn tổ tầm tông để cùng dòng họ xây nhà thờ họ, lập đồng mả họ tộc, quy tụ mồ mả tổ tiên và những người trong họ đã qua đời trong chiến tranh phải chôn nhiều nơi, nay cải táng về trên đất họ tộc để tiện việc chăm sóc.

Việc giỗ chạp tổ tiên trong thời chiến tranh cũng như hòa bình vẫn tiến hành nghiêm túc, quy tụ được con cháu xa gần đến đông đủ và nay lập gia phả cho dòng họ mình. Đó là nét đẹp văn hóa của dòng họ.

Một đặc điểm nổi bật nữa là tinh thần cách mạng triệt để của một số con cháu theo cách mạng. Hầu hết các chi đều có con cháu tham gia qua hai cuộc kháng chiến có người đã hy sinh anh dũng trở thành liệt sĩ khi tuổi thanh xuân như ông Nguyễn Văn Đọt, Nguyễn Văn Đức (Nguyễn Thanh Hải), có người bị giặc giết mất xác nay vẫn còn là chiến sĩ vô danh. Có người lăn lóc trong công tác như ông Nguyễn Văn Thang (tự Nhàn) bị tù đày, bị tra tấn dã man vẫn không ngã lòng, vẫn một lòng với cách mạng. Trong công tác cách mạng dù ở hoàn cảnh nào cũng giữ được khí tiết của người Cộng sản. Bà con ở tại quê nhà thì ủng hộ cách mạng, một số bị bắt đi quân dịch chế độ cũ, có người thì đi lính kiểng. Không có ai gây nợ máu với nhân dân.

Khi hòa bình lập lại thì nhiệt tình cách mạng vẫn không đổi : các con ông Thang (tự Nhàn) là những cán bộ đảng viên hết lòng trong công tác đảng và chính quyền góp phần xây dựng đất nước.

Trong việc làm kinh tế, con cháu họ Nguyễn đã có người vượt qua chính mình từ người nông dân nghèo khó đã trở thành người làm kinh tế giỏi trong thời kỳ đổi mới như ông Nguyễn Hữu Nhiệm đã trở thành nông dân tiêu biểu đóng góp nhiều kinh nghiệm trong việc trồng rừng, chăn nuôi cho tỉnh nhà.

Đây là những truyền thống tốt đẹp của dòng họ Nguyễn đáng được con cháu tự hào học tập và phát huy.

Với gia phả này con cháu họ Nguyễn có trách nhiệm phổ biến nguồn gốc tổ tiên, biết lịch sử dòng họ, bảo quản kỷ lưỡng và không ngừng bổ sung.

V./ PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG DÒNG HỌ VĂN HÓA

Kế thừa và phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế của dòng họ để xây dựng dòng họ văn hóa là việc làm cần thiết của con cháu ở ấp Tân Trạch hiện nay.

Họ Nguyễn đã có những truyền thống tốt đẹp như : cần cù, lao động, sáng tạo, có lòng yêu quê hương đất nước, có tinh thần cách mạng, biết phụng thờ tổ tiên. Đó là những đức tính đáng quý.

Bên cạnh đó cũng còn có những gia đình khó khăn trong cuộc sống ở các chi họ, việc học hành của con cháu còn rất hạn chế, cần được họ tộc giúp đỡ. Hội đồng gia tộc họ Nguyễn nên có kế hoạch xây dựng dòng họ văn hóa, cụ thể gồm việc khuyến học, khuyến tài, khuyến nghiệp... Dòng họ nên vận động lập qũy khuyến học, khuyến tài để hỗ trợ cho các cháu hiếu học mà gặp hoàn cảnh khó khăn không tiếp tục được, có điều kiện học đến nơi đến chốn và khen thưởng các cháu học giỏi, xuất sắc, để phát huy tài năng cống hiến cho đất nước, làm vinh danh dòng họ. Việc khen thưởng nên tổ chức vào ngày giỗ tổ để khuyến khích dòng họ hưởng ứng và khích lệ con cháu phấn đấu học tốt hơn.

Việc tích cực giúp đỡ con cháu có công ăn việc làm cũng là việc thiết thực để giúp bà con vượt khó khăn trong cuộc sống và dòng họ gắn bó nhau hơn.

Hiện nay trong dòng họ cũng còn cục bộ, nên xóa bỏ những tị hiềm thương yêu đoàn kết nhau hơn.

Tôn kính tri ân tổ tiên, con cháu họ Nguyễn có trách nhiệm phải xây dựng dòng họ mình tốt đẹp hơn.

ĐỜI I

ÔNG BÀ THỦY TỔ

NGUYỄN VĂN ĐIỆN

Sinh : -

Mất : -

Giỗ: 25/5 Âl.

Mộ: đồng mả họ tộc ở ấp Tân Trạch xã Bạch Đằng

NGUYỄN THỊ THẠNH (Tự NHÌ)

Sinh : -

Mất : -

Giỗ: 12/12 Âl.

Mộ: đồng mả họ tộc ở ấp Tân Trạch xã Bạch Đằng.

clip_image004clip_image006

Qua thu thập thông tin trong dòng họ Nguyễn ở ấp Tân Trạch, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thì được biết ông Nguyễn Văn Điện là người cao tuổi nhất trong dòng họ Nguyễn tạm gọi là ông tổ đời I. Con cháu biết được tên ông là do lúc cúng cơm ông, lời khấn vái truyền nối từ đời II, đến hậu duệ hiện nay

Ông từ đâu đến đây lấy vợ lập nghiệp từ thời gian nào, sinh mất năm nào, hậu duệ của ông không ai được rõ.

Con cháu ông nghe kể lại rằng ông sống nghề làm ruộng, trồng mía trồng cây ăn trái quanh nhà đặc biệt là cây bưởi. Nhà ông có lò đường, ông quy tụ con lại nấu đường làm đường thẻ. Ông qua đời khi còn rất trẻ, không rõ vì bịnh gì, chỉ nhớ ngày giỗ ông là ngày 25/2 Âl.

Bà tổ tên Nguyễn Thị Thạnh (tự Nhì) con ông Nguyễn Văn Lai là người được sinh ra và lớn lên ở ấp Tân Trạch, xã Mỹ Qưới (nay là xã Bạch Đằng) quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

Con cháu nghe kể lại là gia đình bà Tổ khá giả, có đất đai ở tại Tân Trạch. Bà cùng ông mướn ruộng trồng mía, lập và đứng ra quản lý lò đường, tổ chức cho các con làm đường tán bán, còn lại thì dùng ghe chở đường và đậu phộng xuống miền Tây làm kẹo bán, rồi mua lúa gạo về quê bán tiếp. Khi ông mất bà mới 38 tuổi. Bà không tái giá, thủ tiết thờ chồng, vẫn tiếp tục quản lý công việc làm ăn, dạy dỗ các con nên người, dựng vợ gả chồng cho các con tử tế.

Bà mất vì bệnh già, không rõ năm nào chỉ nhớ giỗ bà là ngày 12 tháng 12 Âl. Mộ ông bà được chôn tại đất nhà, ở Tân Trạch, xã Mỹ Qưới (nay là xã Bạch Đằng) quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

Phần đất này sau khi bà mất được chia cho con cháu. Sau đó, con cháu bán lại cho người khác. Năm 2003, con cháu đời thứ IV xây nhà thờ họ trên phần đất nhà kế bên phần đất đã bán và bốc mộ ông bà, lấy cốt lập bàn thờ trong nhà thờ họ để thờ cúng ông bà.

Năm 2005 thì song táng ông bà vào đồng mả gia tộc phía sau nhà thờ họ. Giỗ ông bà trước kia do ông Nguyễn Văn Quài (đời III chi ông Nguyễn Văn Lành) phụ trách. Ông Quài qua đời, ông Nguyễn Văn Mít (em ông Quài, đời III chi ông Lành) đảm trách.

Khi có nhà thờ họ, việc cúng giỗ con cháu quy tụ lại nhà thờ họ phân công nhau cùng lo cúng giỗ ông bà. Ông Nguyễn (Lê) Hồng Phương (đời V) đại diện hậu duệ họ Nguyễn khấn vái. Con cháu lần lượt thắp hương ông bà.

* Các con của ông bà:

- Thứ hai, Thứ ba, Thứ tư: chết nhỏ.

- Thứ năm : Nguyễn Văn Trà

- Thứ sáu : Nguyễn Văn Đọt

- Thứ bảy : Nguyễn Văn Chi

- Thứ tám : Nguyễn Văn Lành

- Thứ chín : Nguyễn Thị Thặng.

Ông bà có 8 người con, chết nhỏ 3 còn 5 gồm 4 trai, 1 gái. Bốn người con trai hình thành bốn chi:

Chi I : Ông Nguyễn Văn Trà.

Chi II : Ông Nguyễn Văn Đọt.

Chi III : Ông Nguyễn Văn Chi.

Chi IV : Ông Nguyễn Văn Lành.

CHI I

ÔNG NGUYỄN VĂN TRÀ

clip_image008

ĐỜI II

CON ÔNG NGUYỄN VĂN ĐIỆN và

BÀ NGUYỄN THỊ THẠNH (Tự NHÌ)

2, 3, 4, chết nhỏ

5. NGUYỄN VĂN TRÀ

Sinh : 1885 (Ất Dậu)

Mất : 1948 (Mậu Tý)

Giỗ: 16/11 Âl.

Mộ: đồng mả họ tộc ở ấp Tân Trạch xã Bạch Đằng.

Vợ 1 : Không rõ

Vợ 2 : PHẠM THỊ SỚM

Sinh : Giáp Thìn

Mất : Bính Tuất

Giỗ: 12/12 Âl.

Mộ: đồng mả họ tộc ở ấp Tân Trạch xã Bạch Đằng.

clip_image010

Mộ phần bà Phạm Thị Sớm và ông Nguyễn Văn Trà

Ông Nguyễn Văn Trà quê quán ấp Tân Trạch, xã Mỹ Qưới (nay là xã Bạch Đằng) quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Tuổi nhỏ, ông có học chữ nho, cuộc sống ông rất cực, cha mất sớm nên ông phụ mẹ, làm ruộng, trồng mía, trồng đậu cùng anh em nấu đường thẻ và phải chở đường, đậu xuống miền Tây làm kẹo đậu phộng bán rồi mua lúa gạo chở về quê bán. Theo lời kể của bà Hai Bún, 102 tuổi, hiện còn minh mẫn ở gần nhà ông Trà. Bà biết ông có hai đời vợ. Thông tin này cũng được các hậu duệ xác nhận là đúng.

Bà thứ nhất không rõ tên, năm sinh, năm mất chỉ biết bà quê ở Bình Thạnh, huyện Vĩnh Cữu, tỉnh Biên Hòa nay là tỉnh Đồng Nai. Sau khi bà bệnh qua đời, ông Trà tục huyền với bà Phạm Thị Sớm, người cùng quê. Bà cùng với ông lo việc buôn bán, nuôi con.

Theo thông tin của dòng họ và qua sự tìm hiểu của tổ làm gia phả thì ông Trà có quan hệ ngoài hôn nhân với một người phụ nữ nữa tại xã và có một người con gái.

Ông Trà và hai bà vợ qua đời vì bệnh. Ông mất ngày 16/11 Âl. năm 1948 thọ 68 tuổi. Bà Sớm mất ngày 10/1 Âl. năm Bính Tuất thọ 41 tuổi. Mộ ông Trà và bà Sớm song táng tại khu mộ của gia tộc thuộc ấp Tân Trạch, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Còn bà vợ thứ nhất, con cháu không rõ năm mất, mộ táng ở đâu. Ông Nguyễn Văn The cúng giỗ ông Trà và bà Sớm. ông The qua đời, bà Lê Thị Não (cháu dâu đời III, chi I) cúng giỗ.

Các con của ông bà:

- Con ông Trà với bà vợ thứ I :

- Thứ hai : Nguyễn Văn The

- Thứ ba : Nguyễn Văn Thé

- Con ông Trà với bà Phạm Thị Sớm

- Thứ tư : Nguyễn Văn Chè

- Thứ năm : Nguyễn Văn Đậm

- Thứ sáu : Nguyễn Văn Thang (tự Nhàn)

- Thứ bảy : Nguyễn Thị Hoa

- Thứ tám : Nguyễn Thị Hoạch

- Con ông Trà ngoài hôn nhân

- Thứ chín : Nguyễn Thị Tốt

ĐỜI III

CHÁU ÔNG NGUYỄN VĂN ĐIỆN

CON ÔNG NGUYỄN VĂN TRÀ và BÀ …

2. NGUYỄN VĂN THE

Sinh : 1905 (Ất Tỵ)

Mất : 1961 (Ất Sửu)

Giỗ: 2/6 Âl.

Mộ: ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng

Bà : không rõ

Sinh : -

Mất : -

Giỗ:

Mộ :

PHẠM THỊ THƯỢNG

Sinh : 1905 (Ất Tỵ)

Mất : 1993 (Quý Dậu)

Giỗ: 10/2 Âl.

Mộ: Bình Hòa - Vĩnh Cửu - Đồng Nai.

… HẬU

Sinh : -

Mất : -

Giỗ:

Mộ :

clip_image012 clip_image014

Mộ phần ông Nguyễn Văn The Mộ phần bà Phạm thị Thượng

clip_image016

Bà Phạm Thị Thượng

Ông Nguyễn Văn The là con trai trưởng của ông Nguyễn Văn Trà. Ông quê quán ở ấp Tân Trạch, xã Mỹ Qưới (nay là xã Bạch Đằng) quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Ông sống theo nghề của cha mẹ, trồng mía, nấu đường, đi ghe mua bán đường và kẹo đậu phộng. Năm 1946 ông tản cư lên Sài Gòn lập vựa bán mía ở chợ Cầu Muối.

Ông Nguyễn Văn The có cuộc sống phóng khoáng, thích đánh bài. Ông có người vợ quê ở Bình Thạnh. Ông bà có một người con gái. Dòng họ không biết tên vợ, con ông. Chỉ biết ông có người con gái đã mất, không có thông tin về bà vợ này của ông. Sau ông lập gia đình với bà Phạm Thị Thượng, quê quán ở ấp Điều Hòa, xã Mỹ Qưới, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) bà lo nội trợ trong gia đình. Khi ông lên Sài Gòn thì ông bà ly thân nhau. Bà vẫn sống ở quê. Ông lập gia đình với bà Hậu, người cùng quê ông. Bà Hậu phụ ông buôn bán mía ở Sài Gòn và nội trợ. Bà Hậu không có con. Hiện nay không có thông tin về bà.

Ông The bị bệnh nặng, em là Nguyễn Văn Thé rước về nhà ở ấp Điều Hòa để chăm sóc, và khi ông qua đời thì táng tại đất nhà ông Thé (khu đồng mả của gia đình vợ ông Thé) ở ấp Điều Hòa. Ông mất ngày 2/6 âm lịch năm 1961. Hiện nay, cháu là Nguyễn Thành Nam con ông Nguyễn Thành Bổ, gọi ông Nguyễn Văn The là bác cúng giỗ cho ông.

Bà theo con gái về xã Bình Hòa, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai ở (quê chồng). Bà mất vì bịnh già thọ 88 tuổi, mộ táng tại xã Bình Hòa, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Con là Nguyễn Thị Hỏi cúng giỗ cho mẹ.

Con của ông bà : Nguyễn Thị Hỏi (Nguyễn Thị Lùn).

ĐỜI IV

CHÁU ÔNG NGUYỄN VĂN TRÀ

CON ÔNG NGUYỄN VĂN THE

và BÀ PHẠM THỊ THƯỢNG

NGUYỄN THỊ HỎI

(NGUYỄN THỊ LÙN)

Sinh : 1930 (Canh Ngọ)

NGUYỄN TẤN ĐƯỚC

Sinh : 1932 (Nhâm Thân)

clip_image018

Bà Nguyễn Thị Hỏi sinh năm 1930 (giấy tờ tên Nguyễn Thị Lùn), quê quán ở ấp Tân Trạch, xã Mỹ Qưới, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Chồng là Nguyễn Tấn Đước, sinh năm 1932 quê quán xã Bình Hòa, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Bà là con duy nhất của ông Nguyễn Văn The và bà Phạm Thị Thượng. Lúc cha mẹ đã ly dị, bà sống với mẹ ở ấp Điều Hòa, xã Mỹ Qưới (nay là xã Bạch Đằng). Thỉnh thoảng lên Sài Gòn sống với cha, phụ buôn bán mía, giúp việc nhà một thời gian rồi bà trở về quê với mẹ. Bà lấy chồng, về quê chồng sinh sống. Ông Đước làm thợ hồ, bà ở nhà lo nội trợ.

Hiện nay ông bà già yếu, các con nuôi. Ông bà đang sống tại xã Bình Hòa, huyện Vĩnh Cữu, tỉnh Đồng Nai.

Các con của ông bà:

- Thứ hai : Nguyễn Hữu Lợi, sinh năm 1955 là thợ hồ. Vợ là Lê Thị Danh, sinh năm 1960 quê quán ở xã Bình Hòa, trước kia làm thợ hồ hiện nay là công nhân xí nghiệp, có 4 con, hiện cư ngụ tại Bình Hòa.

- Thứ ba : Nguyễn Thị Kim Dung, sinh năm 1955, chồng là Mai Văn Thực, quê quán Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, làm ruộng, có 7 con.

- Thứ tư : Nguyễn Thị Mỹ, sinh năm 1961, công nhân Pouchen, học lực 10/12, chồng là Nguyễn Văn Kỷ thợ hồ, có 5 con, nhà ở xã Bình Hòa, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

- Thứ năm : Nguyễn Ngọc Lệ, sinh năm 1964 và mất năm 1979. Bà Lệ đi học bị trúng gió đưa vào bệnh viện thì mất.

- Thứ sáu, thứ bảy: chết nhỏ.

- Thứ tám : Nguyễn Hữu Tài, sinh năm 1972, học lực 9/12. Hiện ông là bảo vệ Công Ty GVECIA. Vợ là Đỗ Ngọc Giàu, sinh năm 1975 quê quán xã Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, là công nhân công ty Pouchen. Ông bà có 2 con, ở cùng với cha mẹ tại xã Bình Hòa, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

ĐỜI III

CHÁU ÔNG NGUYỄN VĂN ĐIỆN

CON ÔNG NGUYỄN VĂN TRÀ

và BÀ VỢ ĐỜI MỘT

3. NGUYỄN VĂN THÉ

Sinh: 1906 (Bính Ngọ)

Mất: 1974 (Giáp Dần)

Giỗ: 25/11 Âl.

Mộ: ấp Điều Hòa xã Bạch Đằng.

LÊ THỊ LÙN

Sinh: 1913 (Quý Sửu)

Mất: 1987 (Đinh Mão)

Giỗ: 30/10 Âl.

Mộ: ấp Điều Hòa xã Bạch Đằng.

clip_image020

Mộ phần bà Nguyễn Thị Lùn và ông Nguyễn Văn Thé

Ông Nguyễn Văn Thé là con thứ ba của ông Nguyễn Văn Trà. Ông cũng theo nghề của cha mẹ, làm ruộng, trồng mía, nấu đường tán, đi ghe mua bán. Ông biết chút ít chữ quốc ngữ. Vợ ông là bà Lê Thị Lùn, quê quán ở xóm Gò Chồi, ấp Điều Hòa, xã Mỹ Qưới (nay là xã Bạch Đằng) quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Bà lo nội trợ trong gia đình và phụ ông công việc đồng áng.

Ông bịnh mất vào ngày 25 tháng 11 Âl. năm Giáp Dần (1974) thọ 68 tuổi. Bà mất ngày 30 tháng 10 Âl. năm Đinh Mão (1987) thọ 74 tuổi, con cháu song táng tại đất nhà ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Ông Nguyễn Hữu Thoại cúng giỗ cho cha, ông Thoại mất vợ là bà Hà Thị Chở cúng giỗ. Bà Nguyễn Thị Kiều Trang, ông Nguyễn Thành Nam (con ông Nguyễn Thành Xây – tự Bổ) cúng giỗ cho bà.

Các con ông bà:

- Thứ hai : không rõ, chết nhỏ.

- Thứ ba : Nguyễn Thị Lè.

- Thứ tư : Nguyễn Thị Phé.

- Thứ năm : Nguyễn Thành Bổ (tự Xây)

- Thứ sáu : Nguyễn Hữu Thoại

- Thứ bảy : Nguyễn Thị Liên.

ĐỜI IV

CHÁU ÔNG NGUYỄN VĂN TRÀ

CON ÔNG NGUYỄN VĂN THÉ

và BÀ LÊ THỊ LÙN

2. chết nhỏ

3. NGUYỄN THỊ LÈ

Sinh: 1937 (Đinh Sửu)

ĐẶNG VĂN VIỆT

Sinh: 1937 (Đinh Sửu)

Mất: 1997 (Đinh Sửu)

Giỗ: 16/5 Âl.

Mộ: ấp Tân Bản, xã Bữu Hòa, Tp. Biên Hòa.

Bà Nguyễn Thị Lè là con thứ ba của ông Nguyễn Văn Thé và bà Lê Thị Lùn, quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng. Thuở nhỏ bà làm ruộng, nội trợ phụ giúp gia đình.

Bà lập gia đình với ông Đặng Văn Việt, sinh năm 1937 quê quán ấp Bình Hưng, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Ông chạy xe lam. Bà bán hàng bông ở chợ Đồn (nay là chợ Bữu Hòa) thành phố Biên Hòa.

Ông mất năm 1997, mộ táng ở nghĩa trang ấp Tân Bản, phường Bữu Hòa, thành phố Biên Hòa. Vợ ông cúng giỗ cho ông.

Bà nay lớn tuổi, nghĩ bán ở với con, con nuôi.

Các con của ông bà:

- Thứ hai : Đặng Thị Tâm, sinh năm 1957, học lực 8/12 trước ở Chợ Đồn với cha mẹ, sau về quê cha là ấp Bình Hưng, xã Bạch Đằng. Đến năm 1980, bà lập gia đình với ông Trần Văn Học, sinh năm 1956 quê quán ấp An Chữ, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, học lực 12/12, làm việc ở UBND phường. Bà làm ruộng, buôn bán nhỏ ở nhà. Ông bà có 3 con:

· Trần Thị Cẩm Thu, sinh năm 1982, học lực 12/12, là công nhân, chưa có gia đình.

· Trần Quốc Dũng, sinh năm 1987, học lực 12/12, là công nhân khu công nghiệp Việt Nam – Singapor, chưa có gia đình.

· Trần Quốc Tuấn, sinh năm 1988, sinh viên trường Cao đẳng nghề.

clip_image022

Bà Đặng Thị Tâm và ông Trần Văn Học

- Thứ ba : Đặng Thành Danh, sinh năm 1959, học lực 9/12, có vợ tên Đức, có 3 con: 2 gái, 1 trai. Gia đình ở phường Bữu Hòa, thành phố Biên Hòa.

- Thứ tư : Đặng Thành Dự, sinh năm 1962, học lực 7/12, không biết tên vợ, có 1 con gái. Hai ông bà đã ly dị.

- Thứ năm : Đặng Thành Dương, sinh năm 1965, học lực 5/12, có vợ, có 2 con. Gia đình ở phường Bữu Hòa, thành phố Biên Hòa.

- Thứ sáu : Đặng Ngọc Liễu, sinh năm 1970, học lực 5/12 có chồng có 2 con ở phường Bữu Hòa, Thành phố Biên Hòa.

- Thứ bảy : Đặng Thành Trung, sinh năm 1976, học lực 12/12, có vợ có 2 con ở chung với mẹ tại ấp Tân Mỹ, phường Bữu Hòa, thành phố Biên Hòa.

4. NGUYỄN THỊ PHÉ

Sinh năm: 1942 (Nhâm Ngọ)

… TẤT

Sinh:

Mất:

Giỗ:

Mộ:

Bà Nguyễn Thị Phé sinh năm 1942, có chồng gọi là Ba Tất (không rõ họ), quê quán ấp Tân Long, xã Bạch Đằng, làm ruộng. Trong thời chiến tranh, chồng bà làm công nhân cho hãng RMK. Bà buôn bán nhỏ, bán thức ăn sáng. Ông bệnh mất, bà ở vậy nuôi con. Ông bà có 6 người con trai, 1 người con gái.

Sáu người con trai có gia đình, ở riêng. Người con gái tên Hà, công nhân công ty Chí Hùng, ở với mẹ tại ấp Tân Long, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

5. NGUYỄN THÀNH BỔ

(tự XÂY)

Sinh: 1945 (Đinh Tuất)

Mất: 1978 (Mậu Ngọ)

Giỗ: 7/12 Âl.

Mộ: ấp Điều Hòa

NGUYỄN THỊ GẮT

Sinh: 1944 (Giáp Thân)

Mất: 2007 (Đinh Hợi)

Giỗ: 29/9 Âl.

Mộ: ấp Điều Hòa

clip_image024 clip_image026

Mộ phần ông Nguyễn Thành Bổ Mộ phần bà Nguyễn Thị Gắt

Ông Nguyễn Thành Bổ là con thứ năm của ông Nguyễn Văn Thé và bà Lê Thị Lùn, làm ruộng, trồng mía. Vợ ông là bà Nguyễn Thị Gắt, quê quán ấp Điều Hòa, xã Mỹ Qưới, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Bà lo nội trợ trong gia đình. Ông bịnh mất năm 1978, mộ táng tại đất thổ mộ họ tộc bên vợ ở ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng. Bà bịnh mất năm 2007, mộ táng tại đất nhà người con thứ ba (Nguyễn Thành Phong) ở ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng (vì do quy định mới của chính quyền, để đảm bảo môi trường không được táng người mất ở gần khu dân cư) nên không táng tại đồng mả gia tộc. Ông Nguyễn Thanh Phong (con thứ ba) cúng giỗ ông, bà Nguyễn Thị Kiều Trang, ông Nguyễn Thành Nam cúng giỗ cho bà.

Các con của ông bà:

- Thứ hai : Nguyễn Thị Kiều Hạnh

- Thứ ba : Nguyễn Thành Phong.

- Thứ tư : Nguyễn Thành Dũ

- Thứ năm : Nguyễn Thành Bảo

- Thứ sáu : Nguyễn Thành Hải

- Thứ bảy : Nguyễn Thị Kiều Trang

- Thứ tám : Nguyễn Thành Nam.

6. NGUYỄN HỮU THOẠI

Sinh: 1954 (Giáp Ngọ)

Mất : 2000 (Canh Thìn)

Giỗ: 5/8 Âl.

Mộ: ấp Điều Hòa – Bạch Đằng

HÀ THỊ CHỞ

Sinh: 1954 (Giáp Ngọ)

clip_image028 clip_image030

Ông Nguyễn Hữu Thoại Bà Hà Thị Chở

clip_image032

Ông Nguyễn Hữu Thoại quê quán ấp Điều Hòa xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, học lực 5/12. Ông làm ruộng, trồng mía. Đến tuổi thanh niên thì bị bắt quân dịch (đi lính chế độ cũ), gia đình ông phải lo lót tiền bạc để ông làm lính kiểng, không phải ra trận. Vợ ông là bà Hà Thị Chở, sinh năm 1954, quê quán xã Trung An, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh. Bà phụ ông làm ruộng, trồng mía.

Khi lập gia đình, ông Thoại được cha mẹ cho 10 sào đất để cất nhà ở và trồng cây ăn trái quanh nhà để cải thiện thêm đời sống, vì không có ruộng nên ông bà đi cấy thuê, làm cỏ, nuôi một ít gia súc để đủ sống. Ông bị bệnh phổi mất năm 2000, mộ táng tại đất thổ mộ họ tộc. Đất này là đất nhà do bà nội là bà Lê Thị Lùn để lại. Ba má ông Thoại giao ông quản lý, bà con trong họ ai mất thì táng ở đó. Nay do có quy định mới về việc an táng những người đã mất không được gần nơi dân cư ngụ, sinh sống nên hiện nay không có ai qua đời được táng ở đây nữa. Ông Thoại mất, vợ là bà Chở vẫn quản lý phần đất này. Do được chia phần đất hương hỏa, nên ông Thoại cúng giỗ cho ba là ông Nguyễn Văn Thé. Ông Thoại mất, vợ ông Thoại cúng giỗ ba chồng (ông Nguyễn Văn Thé) và chồng. Ông bà có một người con trai.

Con của ông bà :

- Nguyễn Hữu Hòa.

Gia đình cư ngụ tại tổ 3, ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

7. NGUYỄN THỊ LIÊN

Sinh: 1956 (Bính Thân)

NGUYỄN VĂN BẦU

Sinh: 1954 (Giáp Ngọ)

Mất : 2008 (Mậu Tý)

Giỗ: 20/5Âl.

Mộ: nghĩa trang xã Bạch Đằng

clip_image034

Mộ phần ông Nguyễn Văn Bầu

Bà Nguyễn Thị Liên con thứ bảy (thứ út) của ông Nguyễn Văn Thé và bà Lê Thị Lùn, quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, bà làm ở hãng giày. Chồng là Nguyễn Văn Bầu, sinh năm 1955. Ông bệnh mất mộ táng tại nghĩa trang xã Bạch Đằng. Vợ ông cúng giỗ cho ông.

Các con của ông bà:

- Thứ hai : Nguyễn Văn Bình, sinh năm 1978, có vợ tên Hưng, có 2 con.

- Thứ ba : Nguyễn Văn Đông, sinh năm 1980, có vợ có 1 con.

- Thứ tư : Nguyễn Văn Hòa, sinh năm 1982, chưa có gia đình.

- Thứ năm : Nguyễn Thị Cúc, sinh năm 1984, chưa có gia đình.

ĐỜI V

CHÁU ÔNG NGUYỄN VĂN THÉ

CON ÔNG NGUYỄN THÀNH BỔ
và BÀ NGUYỄN THỊ GẮT

2. NGUYỄN THỊ KIỀU HẠNH

Sinh: 1963 (Quý Mão)

TRẦN TRỌNG YÊM

Sinh: 1960 (Canh Tý)

Bà Nguyễn Thị Kiều Hạnh, sinh năm 1963 quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, học lực 8/12. Chồng là Trần Trọng Yêm, sinh năm 1960 quê quán ấp Bình Hưng, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Ông bà làm ruộng, nuôi bò.

Các con của ông bà:

- Thứ hai : Trần Thanh Tuấn

- Thứ ba : Trần Tuấn Thanh.

Ông bà đang cư ngụ tại ấp Bình Hưng, xã Bạch Đằng.

3. NGUYỄN THÀNH PHONG

Sinh: 1964 (Giáp Thìn)

NGUYỄN NGỌC LAN

Sinh: 1967 (Đinh Mùi)

Ông Nguyễn Thành Phong, sinh năm 1964 quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, là con thứ ba trong gia đình. Vợ ông là bà Nguyễn Ngọc Lan, sinh năm 1967, người cùng quê, học lực 9/12.

Ông nuôi bò, bà là công nhân công ty Chanshin tỉnh Đồng Nai.

Các con của ông bà:

- Thứ hai : Nguyễn Hoài Phương, sinh năm 1999.

- Thứ ba : Nguyễn Thanh Trúc, sinh năm 2002

Gia đình đang cư ngụ tại ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng.

4. NGUYỄN THÀNH DŨ

Sinh: 1968 (Mậu Thân)

NGÔ NGỌC MỸ

Sinh: 1970 (Canh Tuất)

clip_image036

Ông Nguyễn Thành Dũ và bà Ngô Ngọc Mỹ

Ông Nguyễn Thành Dũ là con thứ tư của ông Nguyễn Thành Bổ và bà Nguyễn Thị Gắt, quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, học lực 12/12. Hiện nay ông làm kế toán ở UBND xã Bạch Đằng.

Vợ ông là bà Ngô Ngọc Mỹ, quê quán Thị trấn Uyên Hưng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, làm thợ may.

Các con của ông bà:

- Thứ hai : Nguyễn Ngô Minh Hoàng

- Thứ ba : Nguyễn Hoàng Mỹ Uyên

5. NGUYỄN THÀNH BẢO

Sinh: 1969 (Kỷ Dậu)

HỒ THỊ ANH HUỆ

Sinh: 1970 (Canh Tuất)

clip_image038

Ông Nguyễn Thành Bảo

Ông Nguyễn Thành Bảo là con thứ năm của ông Nguyễn Thành Bổ và bà Nguyễn Thị Gắt, quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Học lực 4/12.

Vợ ông là bà Hồ Thị Anh Huê, sinh năm 1970 quê quán ấp Tân Long, xã Bạch Đằng. Học lực 12/12, bà thu mua nông sản tại vườn chở ra chợ bán cho bạn hàng.

Các con của ông bà:

- Thứ hai : Nguyễn Thành An.

- Thứ ba : Nguyễn Minh Thuận

Gia đình cư ngụ tại ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng.

6. NGUYỄN THÀNH HẢI

Sinh: 1971 (Tân Hợi)

TỐNG THU HIỀN

Sinh: 1974 (Giáp dần)

Ông Nguyễn Thành Hải là con thứ sáu của ông Nguyễn Thành Bổ và bà Nguyễn Thị Gắt, quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, học lực 6/12. Vợ ông là bà Tống Thu Hiền, sinh năm 1974, cùng quê, học lực 9/12. Ông làm bảo vệ công ty Cự Hùng, bà ở nhà lo nội trợ.

Con ông bà:

- Nguyễn Thị Quế Hương

Gia đình cư ngụ tại ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng.

7. NGUYỄN THỊ KIỀU TRANG

Sinh: 1973 (Quý Sửu)

Nguyễn Thị Kiều Trang là con thứ bảy của ông Nguyễn Thành Bổ và bà Nguyễn Thị Gắt, quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Học lực bà Trang 12/12, bà làm thợ may, rồi làm công nhân ở Quận 6 thành phố Hồ Chí Minh.

Mẹ bệnh, bà Trang về quê ở nhà chăm sóc mẹ, lo nội trợ. Khi mẹ mất, Trang ở nhà chăm sóc vườn tược, cùng người em trai là Nguyễn Thành Nam nấu rượu bán, lấy hèm nuôi heo, lo nội trợ trong gia đình. Bà còn độc thân.

Hiện bà ở nhà cha mẹ ở ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng.

8. NGUYỄN THÀNH NAM

Sinh: 1976 (Bính Thìn)

TRẦN THỊ TUYẾT LAN

Sinh: 1982 (Nhâm Tuất)

Ông Nguyễn Thành Nam là con thứ tám (con út) của ông Nguyễn Thành Bổ và bà Nguyễn Thị Gắt, quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, học lực 8/12. Lúc nhỏ ông làm ruộng, chăn nuôi phụ giúp gia đình.

Ông lập gia đình năm 2009, vợ Trần Thị Tuyết Lan, sinh năm 1982 quê quán ấp Tân Thắng, xã Tân Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương, học lực 9/12, công nhân hãng Wonderfull (sản xuất linh kiện điện thoại di động).

Ông ở nhà cha mẹ cùng với người chị thứ 7 (Nguyễn Thị Kiều Trang). Ông làm ruộng, lấy gạo nấu rượu (với chị thứ 7), nuôi heo. Nhà có 24 sào ruộng.

Ông cùng chị thứ bảy cúng giỗ mẹ, bà nội, bác Hai (ông The).

Hiện đang cư ngụ tại tổ 15 ấp Điều Hòa xã Bạch Đằng.

Ông bà chưa có con.

ĐỜI VI

CHÁU ÔNG NGUYỄN THÀNH BỔ

CON ÔNG NGUYỄN THÀNH PHONG

và BÀ NGUYỄN NGỌC LAN

2. NGUYỄN HOÀI PHƯƠNG

Sinh: 1999 (Kỷ Mão)

Nguyễn Hoài Phương quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, còn nhỏ, đang đi học, ở với cha mẹ.

3. NGUYỄN THANH TRÚC

Sinh: 2002 (Nhâm Ngọ)

Nguyễn Thanh Trúc quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, còn nhỏ, đang đi học, ở với cha mẹ.

CON ÔNG NGUYỄN THÀNH DŨ

và BÀ NGÔ NGỌC MỸ

2. NGUYỄN NGÔ MINH HOÀNG

Sinh: 1995 (Ất Hợi)

Nguyễn Ngô Minh Hoàng quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, còn nhỏ, đang đi học, ở với cha mẹ

3. NGUYỄN NGÔ MỸ UYÊN

Sinh: 2005 (Ất Dậu)

Nguyễn Ngô Mỹ Uyên quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, còn nhỏ, đang đi học, ở với cha mẹ.

CON ÔNG NGUYỄN THÀNH BẢO
và BÀ HỒ THỊ ANH HUỆ

2. NGUYỄN THÀNH AN

Sinh: 1991 (Tân Mùi)

Nguyễn Thành An quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, còn nhỏ, đang đi học, ở với cha mẹ

3. NGUYỄN MINH THUẬN

Sinh: 1996 (Bính Tý)

Nguyễn Minh Thuận quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, còn nhỏ, đang đi học, ở với cha mẹ

CON ÔNG NGUYỄN THÀNH HẢI

và BÀ TỐNG THU HIỀN

NGUYỄN THỊ QUẾ HƯƠNG

Sinh: 1991 (Tân Mùi)

Nguyễn Thị Quế Hương quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, còn nhỏ, đang đi học, ở với cha mẹ

ĐỜI V

CHÁU ÔNG NGUYỄN VĂN THÉ

CON ÔNG NGUYỄN HỮU THOẠI

và BÀ HÀ THỊ CHỞ

NGUYỄN HỮU HÒA

Sinh: 1982 (Nhâm Tuất)

NGUYỄN THỊ DIỄM CHÂU

Sinh: 1981 (Tân Dậu)

Nguyễn Hữu Hòa là con trai duy nhất của ông Nguyễn Hữu Thoại và bà Hà Thị Chở, sinh năm 1982, quê quán ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Lúc nhỏ, ông phụ cha mẹ làm ruộng.

Vợ ông là bà Nguyễn Thị Diễm Châu, sinh năm 1981, quê quán ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, học lực 12/12. Ông Hòa là công nhân công ty cao su Casumina. Vợ ông là công nhân công ty Chí Hùng ở Tân Ba – Tân Uyên – Bình Dương.

Con của ông bà:

- Nguyễn An Bình.

Hiện ông bà ở cùng với mẹ tại tổ 15 ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

ĐỜI VI

CHÁU ÔNG NGUYỄN HỮU THOẠI

CON ÔNG NGUYỄN HỮU HÒA

và BÀ NGUYỄN THỊ DIỄM CHÂU

NGUYỄN AN BÌNH

Sinh: 2006 (Bính Tuất)

clip_image040

Nguyễn An Bình

An Bình còn nhỏ, cha mẹ đi làm ở với bà nội tại ấp Điều Hòa, xã Bạch Đằng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

ĐỜI III

CHÁU ÔNG NGUYỄN VĂN ĐIỆN

CON ÔNG NGUYỄN VĂN TRÀ

và BÀ PHẠM THỊ SỚM

4. NGUYỄN VĂN CHÈ

Sinh: 1917 (Đinh Tỵ)

Mất: 1955 (Ất Mùi)

Giỗ:

Mộ: đồng mả họ tộc ở ấp Tân Trạch xã Bạch Đằng.

NGUYỄN THỊ BỜI

Sinh:

Mất:

Giỗ:

Mộ:

clip_image042

Ông Nguyễn Văn Chè là con thứ tư của ông Nguyễn Văn Trà và bà Phạm Thị Sớm. Ông Chè tham gia kháng chiến chống Pháp. Đến năm 1954, ông không đi tập kết, ở lại nhà tham gia sản xuất. Ông theo nghề của cha mẹ, trồng mía, nấu đường tán, trồng đậu ... Ông bệnh mất.

Vợ ông là bà Nguyễn Thị Bời quê quán xã Bình Long (Bình Lợi hiện nay), huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.Vợ ông lo nội trợ.

Từ ngày ông mất, bà không có liên lạc với dòng họ nên không biết được hành trạng của bà sau này. Giỗ ông được con cháu giỗ chung ở nhà thờ họ.

Ông bà không có con.

5. NGUYỄN VĂN ĐẬM

Sinh: 1916 (Bính Thân)

Mất: 1948 (Mậu Tý)

Giỗ: 23/9Âl.

Mộ: đồng mả họ tộc ở ấp Tân Trạch xã Bạch Đằng.

… RƯỜNG

Sinh:

Mất: 2007 (Đinh Hợi)

Giỗ:

Mộ: ấp Tân Trạch.

clip_image044

Ông Nguyễn Văn Đậm là con thứ năm của ông Nguyễn Văn Trà và bà Phạm Thị Sớm. Con cháu không rõ hành trạng của ông, chỉ biết ông cũng trồng mía, làm ruộng,

Vợ ông là bà Rường (con cháu không rõ họ gì) quê quán ấp Tân Trạch, xã Mỹ Qưới (nay là xã Bạch Đằng), quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Theo lời bà Hỏi (con ông The) thì bà bán thuốc tây.

Ông bị bệnh mất ngày 23 tháng 9 âm lịch năm Mậu Tý (1948), táng ở Biên Hòa. Năm 1954 cải táng về đất nhà (sau nhà thờ họ hiện nay).

Khi ông mất bà trở về quê, vẫn ở một mình không tái giá. Giỗ ông được con cháu giỗ ở nhà thờ họ.

Ông bà không có con.

ĐỜI III

CHÁU ÔNG NGUYỄN VĂN ĐIỆN

CON ÔNG NGUYỄN VĂN TRÀ

và BÀ PHẠM THỊ SỚM

6. NGUYỄN VĂN THANG (tự NHÀN)

Sinh: 1919 (Kỷ Mùi)

Mất: 1974 (Giáp Dần)

Giỗ: 23/8 Âl.

Mộ: Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh Đồng Nai

- TRƯƠNG THỊ CHẤN

Sinh: 1916 (Bính Thìn)

Mất: 1997 (Đinh Sửu)

Giỗ: 20/10 Âl.

Mộ: Bữu Long - Biên Hòa

- LÊ THỊ NÃO

Sinh: 1923 (Quý Hợi)

clip_image046

clip_image048

clip_image050

clip_image052 clip_image054

Mộ phần ông Nguyễn Văn Thang (tự Nhàn) Mộ phần bà Trương Thị Chấn

Ông Nguyễn Văn Thang là con thứ sáu của ông Nguyễn Văn Trà và bà Phạm Thị Sớm. Nguyễn Văn Nhàn còn gọi là Sáu Nhàn là bí danh khi làm cách mạng. Ông sinh quán ấp Tân Trạch, xã Mỹ Qưới (nay là xã Bạch Đằng), quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Tuổi nhỏ ông vừa đi học, vừa phụ gia đình làm ruộng, đi ghe.

Ông tham gia cách mạng từ sau Cách Mạng Tháng 8 qua hai cuộc kháng chiến với công tác quân báo và vận động tư sản.

Năm 1962 ông bị bắt đến năm 1964 thì ra tù, tiếp tục công tác. Năm 1974, ông bệnh nặng đến 12/9/1974 thì qua đời. Ông được chôn ở xã Bữu Hòa. Sau giải phóng, được đưa về nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Đồng Nai.

(Xem thêm tiểu sử ở phần Ngoại phả)

Ông có hai đời vợ :

- Đời thứ nhất : Bà Trương Thị Chấn, quê ở Bữu Long, tỉnh Biên Hòa. Bà là con một, buôn rau cải ở chợ Bữu Long. Do ông thoát ly làm cách mạng nên ông ít liên lạc được với gia đình. Khi bà sinh người con thứ tư thì không còn liên lạc với ông. Bà ở vậy nuôi con đến năm 1997 thì mất. Giỗ bà do con gái út là Nguyễn (Trương) Thị Liên giỗ.

- Đời thứ hai : Do điều kiện công tác nên ông lập gia đình lần thứ hai với bà Lê Thị Não – con gia đình cách mạng ở xã Bình Trị (nay là xã Tân Bình), huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Bà tham gia cách mạng sau 1945 là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam. Bà tham gia cách mạng suốt hai thời kỳ kháng chiến.

Hiện bà về hưu và sống tại nhà ở xã Tân Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương, được các con chăm sóc và nuôi dưỡng.

(Xem thêm phần tiểu sử ở Ngoại phả và hồi ký tựa “Giặc đến nhà” do Yên Tri ghi, NXB Đồng Nai xuất bản).

* Con ông Thang (tự Nhàn) với bà Trương Thị Chấn

- Thứ hai : Nguyễn (Trương) Thị Hóa

- Thứ ba : Nguyễn (Trương) Văn Thế

- Thứ tư : Nguyễn (Trương) Thị Liên

* Con Ông Thang (tự Nhàn) với bà Lê Thị Não:

- Thứ hai : Nguyễn (Lê) Hoàng Quân

- Thứ ba : Nguyễn (Lê) Hồng Phương

- Thứ tư : Nguyễn (Lê) Thị Thúy Nga (chết nhỏ)

- Thứ năm : Nguyễn Minh Hùng

- Thứ sáu : Nguyễn Thị Kim Anh.

ĐỜI IV

CHÁU ÔNG NGUYỄN VĂN TRÀ

CON ÔNG NGUYỄN VĂN THANG (Tự NHÀN) và BÀ TRƯƠNG THỊ CHẤN

2. NGUYỄN (TRƯƠNG) THỊ HÓA

Sinh : 1944 (Giáp Thân)

TRẦN VĂN NHIỄU

Sinh: 1940 (Canh Thìn)

clip_image056

Bà (Nguyễn) Trương Thị Hóa là con thứ hai của ông Nguyễn Văn Thang (tự Nhàn) với bà Trương Thị Chấn, quê quán Bữu Long, Biên Hòa. Do cha đi làm cách mạng nên bà mang họ mẹ. Tuổi nhỏ bà phụ gia đình làm ruộng, lớn lên đi làm đá. Chồng là Trần Văn Nhiễu, sinh năm 1940 quê quán xã Tân Thành, quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa nay là phường Bữu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, học lực trung học đệ I cấp (tương đương 9/12). Để tránh đi quân dịch, ông đi dân vệ, ở nhà làm đá ở Tân Bản cho tới hiện nay. Bà ở nhà nội trợ.

Các con của ông bà:

- Thứ hai : Trần Thị Thanh Hà, sinh năm 1964, quê quán Bữu Long, tỉnh Biên Hòa, học lực lớp 12/12, làm nhân viên công ty thương nghiệp, có chồng nước ngoài. Hiện nay, bà Hà định cư tại Mỹ. Có một con trai, sinh năm 2009.

- Thứ ba : Trần Thị Mỹ Dung, sinh năm 1966, quê quán Bữu Long, học lực 9/12. Chồng tên Nguyễn Công Chánh, sinh năm 1962 nhưng trong giấy tờ năm 1964, quê quán Vĩnh Long. Ông là công nhân công ty BBCC (công ty khai thác đá tại Biên Hòa). Bà ở nhà nội trợ. Ông bà chưa có con. Hiện ở chung với cha mẹ.

- Thứ tư : Trần Duy Minh, sinh năm 1967, quê quán Bữu Long, tỉnh Biên Hòa, học lực 9/12. Ông làm đá cùng gia đình. Vợ ông là Võ Thị Diễm Châu, sinh năm 1969, quê quán phường Quyết Thắng, Thành phố Biên Hòa, học lực 12/12. Bà lo nội trợ, có hai con 1 trai, 1 gái:

· Trần Minh Pha, sinh năm 1997, học lớp 7.

· Trần Minh Anh, sinh năm 2004.

- Thứ năm : Trần Thị Thanh Tâm, sinh năm 1970, quê quán Bữu Long, tỉnh Biên Hòa nay là tỉnh Đồng Nai, học lực 12/12. Bà đang định cư tại Mỹ, công nhân sản xuất máy bay tại Mỹ. Bà còn độc thân.

- Thứ sáu : Trần Minh Mẫn, sinh năm 1973, quê quán Bữu Long, tỉnh Biên Hòa, học lực 12/12, công nhân cơ khí giao thông vận tải tỉnh Đồng Nai. Vợ là bà Nguyễn Thị Diễm Thi, sinh năm 1982, quê quán An Hữu, tỉnh Tiền Giang, học lực 5/12, nội trợ. Ông bà có hai con 1 trai 1 gái:

· Trần Chí Hào, sinh năm 2000, học lớp 4.

· Trần Khánh Vy, sinh năm 2009.

- Thứ bảy : Trần Thanh Phong, sinh năm 1975, học lực 12/12. Ông là công nhân khai thác đá, chưa có gia đình.

Trừ người con thứ hai, thứ năm định cư tại Mỹ, các con còn lại đều ở cùng cha mẹ tại 15/7 tổ 18 khu phố 3 phường Bữu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

3. NGUYỄN (TRƯƠNG) VĂN THẾ

Sinh: 1946 (Bính Tuất)

NGUYỄN THỊ ĐÀO

Sinh: 1940 (Canh Thìn)

Ông Nguyễn (Trương) Văn Thế là con thứ ba của ông Nguyễn Văn Thang (tự Nhàn) và bà Trương Thị Chấn (do cha tham gia cách mạng nên ông lấy họ mẹ). Ông quê quán ở Bữu Long, tỉnh Biên Hòa, học lực trung học đệ I cấp (tương đương lớp 9 hiện nay). Ông đi lính quân cảnh (chế độ cũ). Sau giải phóng, ông làm thợ may, bán vải ở chợ Biên Hòa. Hiện nay, ông định cư tại Mỹ.

Vợ ông, bà Nguyễn Thị Đào, quê quán ở Vĩnh Long. Bà lo nội trợ. Ông bà đã ly dị, bà lập gia đình khác. Ông bà có hai con trai, ở với người cô thứ tư tên Nguyễn (Trương) Thị Liên ở phường Bữu Long thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Các con của ông bà:

- Thứ hai : Nguyễn Văn Danh.

- Thứ ba : Nguyễn Văn Mỹ.

4. NGUYỄN (TRƯƠNG) THỊ LIÊN

Sinh: 1952 (Nhâm Thìn)

HUỲNH VĂN VUI

Sinh: 1951 (Tân Mão)

clip_image058 clip_image060

Bà Nguyễn (Trương) Thị Liên là con thứ tư của ông Nguyễn Văn Thang (tự Nhàn) với bà Trương Thị Chấn. Do cha đi làm cách mạng, bà mang họ mẹ. Quê quán Bữu Long, tỉnh Biên Hòa, học lực 10/12, bà bán siêu thị (còn gọi là PX) trong quân đội ở căn cứ Thái Lan, đóng tại Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Đến giải phóng thì bà nghỉ.

Chồng bà là ông Huỳnh Văn Vui, sinh năm 1951, quê quán Châu thành, tỉnh Tiền Giang. Trước giải phóng là lính không quân. Sau giải phóng làm thợ điện, trồng trọt, cấy lúa, trồng cây ăn trái…

Ông bà có hai con :

- Thứ hai : Huỳnh Trương Minh Thy, sinh năm 1975, quê quán phường Bữu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, công nhân xí nghiệp điện tử Mapuchin (Nhật). Chồng tên Nguyễn Đình Chiểu, sinh năm 1971, quê quán Hố Nai, tỉnh Đồng Nai. Ông là công nhân xây dựng, có 1 con :

· Nguyễn Huỳnh Thiên Kim, sinh năm 2008.

Gia đình cư ngụ ở Hố Nai, tỉnh Đồng Nai.

- Thứ ba : Huỳnh Trương Quang Duy, sinh năm 1984, quê quán phường Bữu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Duy đang học đại học Lạc Hồng ngành công nghệ thông tin.

Gia đình đang cư ngụ tại C16 tổ 32B khu phố 5 phường Bữu Long thành phố Biên Hòa. Điện thoại: 061.3901702.

CON ÔNG NGUYỄN VĂN THANG (Tự NHÀN) và BÀ LÊ THỊ NÃO

2. NGUYỄN (LÊ) HOÀNG QUÂN

Sinh: 1953 (Quý Tỵ)

NGUYỄN THỊ KIM LIÊN

Sinh: 1958 (Mậu Tuất)

clip_image062clip_image064

Nguyễn (Lê) Hoàng Quân là tên thường gọi còn trong giấy khai sinh của ông tên Lê Minh Sơn, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1953, sinh quán xã Tân Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Ông có cử nhân Luật và cử nhân Chính trị, là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông đã trải qua các nhiệm vụ từ giao liên đến Chánh văn phòng Ủy ban Nhân dân thành phố Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai), rồi Bí thư Thành ủy thành phố Biên Hòa. Sau đó ông giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai rồi Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Đồng Nai. Ông là Ủy viên Trung ương đảng các khóa IX và X, Phó bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố. Đại biểu Quốc hội khóa X (1997-2002), đại biểu HĐND thành khóa V, đại biểu HĐND Tp.HCM khóa VII

Trong quá trình công tác ông được khen thưởng :

- Huân chương Quyết thắng hạng I

- Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng III

- Huân chương lao động hạng II, III

Nhiều bằng khen của thủ tướng Chính phủ, của bộ ngành và kỷ niệm chương của nhiều tổ chức trao tặng.

(Xem tiểu sử ở phần Ngoại phả)

Vợ ông là bà Nguyễn Thị Kim Liên, sinh ngày 29 tháng 4 năm 1958, con ông Nguyễn Văn Tỏ và bà Tống Thị Kim Huyền. Bà là con út trong gia đình có 3 người con. Quê quán xã Tân Bình, huyện Dĩ An tỉnh Bình Dương. Bà tốt nghiệp đại học ngành Quản trị kinh doanh, cử nhân chính trị. Bà là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam.

Bà trải qua nhiều công tác từ nhân viên đến Phó văn phòng UBND thành phố Biên Hòa lên Ủy viên Thường trực MTTQVN thành phố Biên Hòa rồi Phó Chủ tịch Mặt trận. Hiện nay, bà là Ủy viên Ban Thường vụ tỉnh ủy Đồng Nai, Chủ tịch Ủy Ban MTTQVN tỉnh Đồng Nai.

Qua quá trình công tác, bà có nhiều giấy khen, bằng khen, huy chương, kỷ niệm chương mà tiêu biểu là bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc.

Hiện ông bà đang cư ngụ tại phường Thanh Bình thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

* Các con của ông bà:

- Thứ hai : Nguyễn (Lê) Hoàng Ngân.

- Thứ ba : Nguyễn (Lê) Hoàng Bảo Trân

3. NGUYỄN (LÊ) HỒNG PHƯƠNG

Sinh: 1954 (Giáp Ngọ)

TRƯƠNG THỊ MỸ LỆ

Sinh: 1960 (Canh Tý)

clip_image066clip_image068

Ông Nguyễn (Lê) Hồng Phương là tên thường gọi. Trong giấy khai sinh tên Lê Minh Hải, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1954, là con thứ ba của ông Nguyễn Văn Thang (tự Nhàn) và bà Lê Thị Não. Ông sinh quán tại xã Bình Trị, quận Dĩ An, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Tân Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương). Ông là đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông đã tham gia hoạt động cách mạng từ nhỏ do mẹ bố trí, và kinh qua nhiều nhiệm vụ từ giao liên cho quân báo tỉnh đội Biên Hòa, huyện ủy viên huyện ủy Dĩ An đến làm cận vệ, lái xe cho Bí thư Thành ủy, rồi Phường đội trưởng, Phó Chủ tịch UBND phường, Bí thư Đảng ủy Phường v.v… và hiện nay là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy tỉnh Đồng Nai, đại biểu Quốc hội khóa XI, XII.

Ông vừa công tác vừa học tại chức và đã tốt nghiệp các ngành XDĐ & CQNN, Luật, Quản Lý kinh tế và cao cấp chính trị trường Nguyễn Ái Quốc khu vực II.

Trong công tác ông được tặng nhiều bằng khen, giấy khen, huân - huy chương… tiêu biểu :

- - Huân chương kháng chiến hạng III

- - Huân chương Quyết thắng hạng III

- - Huân chương lao động hạng III

- - Huân chương chiến thắng hạng I.

clip_image070

- (Xem tiểu sử ở phần Ngoại phả).

Vợ ông là bà Trương Thị Mỹ Lệ, sinh năm 1960, quê quán xã Thành Triệu, huyện Châu thành, tỉnh Bến Tre. Bà là con đầu (thứ hai) của ông Trương Văn Tùng nguyên Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bến Tre, và bà Phan Thị Hai gốc bần nông, gia đình cách mạng.

Tuổi nhỏ bà đi học cấp I, II tại xã An Hiệp, huyện Châu Thành tỉnh Bến Tre,

Đến năm 1975 bà học trường Bổ túc công nông tỉnh Bến Tre và tốt nghiệp phổ thông.

Năm 1981, bà đi học trường Nguyễn Ái Quốc II đến năm 1984 thì tốt nghiệp, sau đó bà về công tác tại ban Tuyên Huấn tỉnh Bến Tre.

Năm 1985, được cử đi học trường Tuyên huấn Trung ương II.

Năm 1987, tốt nghiệp đại học Mác Lê Nin.

Năm 1988 đến nay (2010) bà là cán bộ giảng dạy chính trị tại Trung tâm giáo dục chính trị Thành phố Biên Hòa. Bà đứng và hàng ngũ của đảng năm 1987.

Các con của ông bà:

- Thứ hai : Nguyễn (Lê) Hồng Minh Thư

- Thứ ba : Nguyễn (Lê) Hồng Minh Quang

Ông bà cùng hai con hiện đang ở số 67 đường 30/4, phường Thanh Bình, Tp Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

 
   

Từ trái sang : Bà Trương Thị Mỹ Lệ, ông Nguyễn (Lê) Hồng Phương,
Nguyễn (Lê) Hồng Minh Quang và Nguyễn (Lê) Hồng Minh Thư

4. NGUYỄN (LÊ) THỊ THÚY NGA

Sinh : 1956 (Bính Thân)

Mất : 1956 (Bính Thân)

Thúy Nga sinh ngày 31 tháng 1 năm 1956, được 7 tháng tuổi Thúy Nga bị bệnh, rồi qua đời.

5. NGUYỄN MINH HÙNG

Sinh: 1958 (Mậu Tuất)

TRẦN THỊ DƯƠNG LIỄU

Sinh: 1968 (Mậu Thân)

clip_image074

Ông Nguyễn Minh Hùng, sinh năm 1958, sinh quán xã Tân Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương, quê quán ấp Tân Trạch, xã Bạch Đằng huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Ông sinh ra và lớn lên ở quê ngoại (Dĩ An).

Đến năm 1973, ông là học sinh Miền Nam ra Miền Bắc học, ông học trường E1171 ở xã Xuân Hòa, huyện Đơn Dương, tỉnh Vĩnh Phú (trường văn hóa nghiệp vụ Bộ Công An). Lúc đó ông Hùng đổi lại họ cha là họ Nguyễn. Đến năm 1975, khi Miền Nam giải phóng ông về sinh sống tại tỉnh Đồng Nai. Công tác tại Công An tỉnh Đồng Nai. Hiện nay là Giám đốc Sở Thông Tin Truyền Thông tỉnh Đồng Nai.

Qua quá trình rèn luyện phấn đấu, ông được kết nạp vào đảng tháng 9/1987. Ông đã tốt nghiệp Cử nhân Luật, Cử nhân Chính trị, Cao học quản lý hành chánh, chuyên viên cao cấp. Được nhiều bằng khen, giấy khen tiêu biểu như sau:

(Xem tiểu sử phần Ngoại phả)

clip_image076

Vợ ông là bà Trần Thị Dương Liễu, sinh năm 1968, sinh quán tại Nghệ An, quê quán xã Phú Vang, huyện Phú Dương, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Cha bà tập kết ra Bắc, lập gia đình và sinh sống tại Bắc. Sau giải phóng, cha mẹ bà được phân công tác tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Bà Liễu học trường cấp I, II, III tại Long Thành, tốt nghiệp trường Đại học Công An hệ An ninh, công tác tại Công an Đồng Nai, cấp hàm Trung tá.

Bà được kết nạp đảng năm 1996, có nhiều bằng khen, giấy khen.

Các con của ông bà:

- Thứ hai : Nguyễn Trần Thùy Linh

- Thứ ba : Nguyễn Trần Lan Đài

Ông bà cùng hai con đang cư ngụ tại 78K đường Võ Thị Sáu phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

6. NGUYỄN THỊ KIM ANH

Sinh: 1960 (Canh Dần)

- LÊ HIẾU NGHĨA

- NGUYỄN ĐĂNG HUY

Bà Nguyễn Thị Kim Anh là con út của ông Nguyễn Văn Thang (tự Nhàn) và bà Lê Thị Não, sinh quán ở xã Bình Trị, quận Dĩ An, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Tân Bình, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương), Tuổi nhỏ bà ở với mẹ vừa đi học vừa giúp mẹ trong công tác cách mạng. Năm 1973, bà được tổ chức đưa đi ra Hà Nội học trường nghiệp vụ của Bộ Công An. Năm 1975, khi Miền Nam được giải phóng, bà trở về Công An tỉnh Đồng Nai được bố trí đi học văn hóa đến năm 1977 bà về công tác tại đơn vị này.

Năm 1978 bà về công tác tại phòng PA. 23 Công An tỉnh Đồng Nai, rồi năm 1983 chuyển về phòng Nghiên cứu Tổng hợp Công An Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Đến năm 1996, bà chuyển ra khỏi ngành công an.

Năm 2000, bà là Giám đốc Công Ty TNHH An Thái trong lĩnh vực xây dựng, cầu đường, trụ sở ở thành phố Biên Hòa.

Miền Nam được giải phóng, do phải xác minh lý lịch để làm việc và học tập, lúc đó bà là người đầu tiên trong gia đình tìm về quê cha, tìm về họ hàng bên nội và bà gắn bó với họ hàng cho đến ngày nay.

Năm 1981 bà lập gia đình với ông Lê Hiếu Nghĩa, công tác cùng đơn vị công an với bà. Sau bà ly dị và tái hôn với ông Nguyễn Đăng Huy.

Các con của bà :

* Với ông Lê Hiếu Nghĩa :

- Thứ hai : Lê Trọng Đức, sinh năm 1982, sinh quán Biên Hòa, Đồng Nai, sinh viên trường đại học Lạc Hồng, ngành Công nghệ thông tin. Ông có 1 con tên Lê Trọng Khánh Vy, sinh năm 2008, ở với bà nội.

 

 

NHỮNG TIÊU ĐỀ KHÁC CỦA  khoahoctheky21

Không có nhận xét nào: