Thứ Ba, 8 tháng 4, 2014

GIA PHẢ - HỌ NGUYỄN -VÀ HỌ TRƯƠNG

GIA PHẢ HỌ NGUYỄN

Nguyễn An Ninh

VÀ HỌ TRƯƠNG

                         TỔ TIÊN LÀ THẦN LINH  -  GIA PHẢ LÀ ĐẠO

Nguyễn_An_Ninh

                                       NGUYỄN AN NINH 1900-1943

              HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

            TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH GIA PHẢ

         GIA PHẢ HỌ NGUYỄN & HỌ TRƯƠNG

(NGUYỄN AN NINH – TRƯƠNG THỊ SÁU)

LẬP LẦN ĐẦU THÁNG 8/1999 – SỬA LẦN 2 THÁNG 12/2013

LỜI TỰA

Nguyễn An Ninh là nhân vật lịch sử nổi tiếng, một nhà yêu nước vĩ đại vào nữa đầu thế kỷ XX ở Nam Kỳ Pháp thuộc. Ông là một trong nhóm Ngũ long (Phan Châu Trinh, Phan văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh) gồm những trí thức Việt Nam tiến bộ nổi danh ở Pháp thời bấy giờ. Thân thế sự nghiệp của Nguyễn An Ninh – theo nhà sử học Trần Văn Giàu - “xứng đáng được lưu danh bằng bia đá tượng đồng”. Sử Việt Nam (cả hồ sơ của mật thám Pháp) đã ghi chép nhiều về hoạt động yêu nước của Nguyễn An Ninh.

Tuy nhiên, lâu nay các nhà nghiên cứu sử học còn chưa biết nguồn gốc dòng họ, nguồn gốc Tổ quán, Tổ phụ, Tổ mẫu của Nguyễn An Ninh, nên một số tư liệu chưa được viết đúng.

Vừa qua, được sự phối hợp của Nhóm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả Thành Phố Hồ Chí Minh, chúng tôi tiến hành dựng bộ gia phả cho dòng họ. Tôi đã cung cấp tư liệu, gồm tập sách “Nguyễn An Ninh” do Nguyễn An Tịnh sưu tầm trên 20 năm, và tập hồi ký “Cùng anh đi suốt cuộc đời” của Má tôi. Nhóm Nghiên cứu và Thực hành Gia Phả còn sưu tầm một số tài liệu mật về Nguyễn An Ninh ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II tại Tp.Hồ Chí Minh, nhiều lần đi điền dã về Hóc Môn (TP.HCM) và Cần Giuộc (Long An) là hai nơi cư ngụ và quê quán của Ba, Má tôi để đọc và chụp ảnh các mộ chí cổ, nghe thêm lời kể của thân nhân, những bậc lão thành có biết về Ba Má tôi, nhờ đó biết đích xác tên bà Ngoại tôi khắc chữ Nho trong bia đá xanh là Ngô Thị Điểm, mà xưa nay chỉ biết bà tên Ngô Thị Ba.

Để cho tình cảm nội ngoại kết nối, tôi đề nghị Nhóm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả dựng bộ Gia phả này gồm họ Nguyễn (bên nội) và họ Trương (bên ngoại) vì thế không thể nghiên cứu sâu và thật đầy đủ cho từng bên. Dù vậy, bộ gia phả vẫn có các phần chính yếu, như: Phả ký, Phả hệ, Phụ lục và có minh họa nhiều ảnh chụp như mộ, bia chí, tên đường, tên trường và cả bút tích, chữ ký của Ba tôi là nhân vật chủ yếu trong bộ gia phả này.

Do chiến tranh ác liệt, dòng họ tứ tán khắp nơi, những bậc trưởng thượng đều qua đời, con cháu còn lại không nhiều, ai biết được đến đâu thì góp vào đến đó nên bộ gia phả này chắc còn nhiều thiếu sót. Mong rằng anh chị em trong hai bên nội ngoại thấy có điều gì thì vui lòng bổ khuyết cho, viết bằng giấy và góp cho nhà thờ gia tộc.

Dù sao, đây cũng là bộ Gia phả đầu tiên của họ tộc Nguyễn –Trương được dựng cơ bản, khá công phu. Từ Gia phả này, chúng ta kết nối dòng họ, đoàn kết gắn bó, thương yêu nhau hơn, ôn lại truyền thống

đẹp đẽ đáng tự hào của cha ông nội ngoại, tiếp tục giáo dục con cháu hãy sống xứng đáng với tổ tông.

Bộ Gia phả này hoàn thành đúng vào dịp chuẩn bị kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ba tôi và 100 năm ngày sinh của Má tôi. Anh chị em chúng tôi coi đây là một món quà tưởng niệm kính dâng lên Ba Má tôi, tấm lòng thành của những đứa con.

Nhân đây thay mặt gia đình, tôi xin cảm ơn bà con dòng họ, cám ơn Nhóm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả TP Hồ Chí Minh đã tận tâm dành gần nửa năm, vượt nhiều khó khăn để hoàn thành bộ gia phả này. (9-1999)

Năm 2013, Nhân kỷ niệm 70 năm ngày mất của Ba tôi,và 30 năm ngày mất của Má tôi, với số tư liệu rất nhiều từ trong nước và ở nước ngoài, gia đình tôi lại phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả TP .HCM (tên mới của Nhóm gia phả) tiến hành sửa chữa, bổ sung, nhứt là tiểu sử của cụ Nguyễn An Khương, ông Nguyễn An Ninh và bà Trương Thị Sáu (dựa trên Gia phả có sẳn), in mới, xứng tầm với công lao sự nghiệp của ông cha mình đối với gia tộc và xã hội.

Nay, bộ Gia phả Họ Nguyễn – Họ Trương mới đã hoàn chỉnh, xin được chánh thức ra mắt với bà con nội ngoại đã hết lòng ủng hộ chúng tôi.

TP.Hồ Chí Minh, ngày 15/12/2013

Kính báo

NGUYỄN THỊ MINH (đời IV)

                                                           HỌ NGUYỄN

Ở TRUNG CHÁNH - HÓC MÔN

                                                  (NGUYỄN AN NINH)

PHẢ KÝ

Phả là tập ghi gốc gác tiến trình của một nhà, một họ. Phả khác với Sử ở chỗ Sử bao gồm các sự kiện hưng suy của từng triều đại, các sự việc của nhiều dòng họ có liên quan mật thiết tới quốc gia, đại cuộc. Phả ghi lịch sử một dòng họ. Nước có sử, nhà có phả. Song sử có tầm quan trọng của sử và phả có tầm quan trọng của phả.

Các nhà sử học quan niệm rằng: “Lịch sử là sinh mạng của quốc gia, dân tộc. Nó có tính chất truy cứu ở quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Việc tìm hiểu nghiên cứu lịch sử không chỉ ở quá khứ mà phải hiểu rõ hiện tại và dự đoán cả tương lai.

Từ đó mà suy, việc nghiên cứu, am hiểu lịch sử một nhà – tức việc dựng gia phả - cũng vậy, không chỉ tìm hiểu ở nguồn gốc, lai lịch quá khứ của một họ tộc là đủ mà phải đi sâu tìm hiểu, dự liệu cho tương lai của gia đình, dòng họ đó. Cho nên dựng bộ gia phả này, chép rõ cội nguồn, truyền nối từng đời trải qua các thời kỳ lịch sử từ Lê, Trịnh đàng Ngoài, đến khi Nguyễn Hoàng theo lời sấm “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, vượt đèo Ngang vào trấn Thuận hóa, rồi làm cuộc Nam tiến mở cõi vào đến phương Nam, đến nay đã hơn 300 năm, là một quá trình lưu truyền con cháu, đời này tiếp nối đời khác, tạo nên dòng nên họ.

Đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà không lâu, người Pháp kéo đến thống trị nước ta. Nhưng ngay từ đó, người Việt Nam gồm các dòng họ, trong đó có họ ta vốn có truyền thống đấu tranh anh dũng, đã đứng lên chống giặc ngay từ khi giặc Tây đánh vào cửa Cần Giờ. Và liên tiếp sau đó, ngay từ đầu thế kỷ XX từ các phong trào yêu nước trước khi có Đảng đến hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của Nam Bộ, dân tộc ta đã phát huy truyền thống quật khởi chống ngoại xâm của tổ tiên để giành độc lập cho Tổ quốc, để có ngày toàn thắng mùa xuân năm 1975, và cũng từ thế hệ ông cha của chúng ta đã hiến dâng cả cuộc đời cùng dân tộc viết nên những trang sử vẻ vang đầy tự hào của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng đầy chí khí anh hùng và thắm đẫm tình nhân loại.

Giờ đây, năm 1999, gần cuối thiên niên kỷ, bước qua năm 2000, lớp thế hệ con cháu chúng ta có điều kiện ngẫm lại, thấy rằng chúng ta đã làm tròn nghĩa vụ đối với Tổ quốc, nên thời gian này xin dành cho việc thực hiện các việc khác trong dòng họ, trong đó có việc tổ chức viết gia phả cho cha ông và họ Nguyễn họ Trương chúng ta.

PHÁT TÍCH DÒNG HỌ

Thủy tổ là ông Đoàn Doãn Nghi (Mậu Ngọ 1678- Kỷ Dậu 1729), danh sĩ thời Lê Hy Tông ( 1675 – 1705 ), nhằm thời Tây vương Trịnh Tạc (1657 -1682) và Định vương Trịnh Căn (1682 – 1709). Ông nội là Lê Công Nẫm, cha là Lê Công Vị (từ ông Doãn Nghi mới đổi họ Đoàn) vẫn ở quê cha là xã Hiếu Phạm. Ông có hai vợ. Bà chánh thất họ Nguyễn sinh ra Đoàn Doãn Sĩ Bà thứ thất họ Võ sinh ra Đoàn Doãn Luân và Đoàn Thị Điểm.Ông Đoàn Doãn Sĩ đem gia quyến về ở vùng Kinh Môn, Nam Sách. Ông Doãn Luân và bà Thị Điểm theo cha về ở làng Lạc Viễn, huyện An Dương ( đều thuộc tỉnh Hải Dương). Ông Đoàn Doãn Nghi mất năm 1729, lúc 51 tuổi. Linh cữu ông được đưa về quê an táng, tên thụy của ông là Ôn Thứ, hiệu là Dương Kinh Tiên sinh:

Ông Đoàn Doãn Luân hay Đoàn Công Luân (Canh Thìn 1700 - ?) có nơi chép là Đoàn Trác Luân hoặc Nguyễn Trác Luân. Ông đỗ Hoàng giáp khoa Kỷ Hợi 1719, là danh sĩ đời Lê Dụ Tông (1705 – 1729) ngang đời An Đô vương Trịnh Cương (1709 – 1729). Ông hiệu là Tuyết Am, tự là Đạm Như Phủ.

Ông và em gái Đoàn Thị Điểm nổi tiếng tài hoa nhưng không theo đường công danh chỉ ở nhà dạy học. Tính ông trung hậu, khi định lập gia đình, đi dạm hỏi con gái ông Lê Hữu Mưu. Hôn nhân chưa thành thì vị hôn thê bị bệnh đậu mùa, rỗ mặt. Nhà gái ngại ông chê nên muốn thoái thác, ông không đổi ý vẫn xin cưới về làm vợ.

Khi cha mất, ông đưa về quê an táng, rồi đi dạy học ở làng Vô Ngại, huyện Đường Hào ( nay là Mỹ Hào ). Ông đưa mẹ và em gái về ở chung. Nhưng rồi ông mất để lại mẹ và vợ con, gánh nặng trao về tay em gái Đoàn Thị Điểm.

Bà Đoàn Thị Điểm (Ất Dậu 1705 – Bính Dần 1746), hiệu là Hồng Hà nữ sĩ. Năm 16 tuổi được Thượng thư Lê Anh Tuấn (Tân Hợi 1671 – Bính Thìn 1736) thời Lê Hy Tông xin làm con nuôi để tiến cung làm phi tần. nhưng được ít lâu, bà xin về cùng anh trau dồi học tập trở nên người thông thạo văn chương. Sau khi cha mất bà 25 tuổi, nhiều người đến dạm hỏi nhưng bà đều từ chối.

Khi anh mất, bà đảm nhận gánh nặng gia đình. Có người ở huyện Đường Hào dâng con gái tiến cung nên mời bà vào làm thầy dạy cho cô gái ấy. Năm Kỷ Mùi 1739, trong nước loạn lạc, làng My Thứ bị tàn phá, bà từ chức về chăm sóc gia đình và dạy học ở làng Chương Dương

Sau đó, bà lập gia đình với Tiến sĩ Nguyễn Kiều, người huyện Từ Liêm. Nhưng ngày chồng đi nhận nhiệm sở ở Nghệ An thì bà mất vào ngày 11 tháng 8 năm Bính Dần 1746, hưởng dương 42 tuổi.

Bà là người dịch ra Nôm bản Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn (có nơi nói bản dịch đó là của Phan Huy Ích) và sáng tác tập Truyền Kỳ Tân Phả tức Tục Truyền Kỳ, gồm 6 truyện : Bích Câu Kỳ Ngộ, Hải Khẩu Linh Từ, Vân Cát Thần Nữ, Hoành Sơn Tiền Cuộc, An Ấp Liệt Nữ và Nghĩa Khuyển Khất Miêu.

Về ông Nguyễn Kiều (1694 -1771), chồng bà Đoàn Thị Điểm.

Ông sinh năm Giáp Tuất 1694, mất năm Tân Mão 1771. Ông hiệu là Hạo Hiên, quê ở huyện Từ Liêm. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi 1715 – thời Lê Dụ Tông – làm chức Đô Ngự sử, có đi sứ Trung Quốc. Khi về nước, được bổ làm Đốc đồng Nghệ An, khi lên đường nhậm chức thì vợ mất. Ông có sáng tác quyển Hạo Hiên Thi Tập

Tư liệu viết thêm về họ Đoàn.

Bà Đoàn Lệnh Hương (Bính Ngọ 1726 – Canh Thân 1800), nữ sĩ thời Lê Ý Tông (1735 -1740), Uy Nam vương Trịnh Giang (1729 – 1740). Bà là con gái lớn của Đoàn Doãn Luân, gọi Đoàn Thị Điểm là cô ruột. lúc 9 tuổi, nhờ ông thúc tổ bên ngoại là Lê Hữu Kiều (em ông Lê Hữu Mưu) bão dưỡng. Lớn lên bà nổi danh tài sắc, nhưng đến 31 tuổi bà mới lập gia đình với ông Nguyễn Xuân Huy đã trên 40 tuổi, là người góa vợ làm quan Đốc đồng Sơn Nam và sinh được một con gái nhưng chết nhỏ lúc lên 2. Sống với nhau trên 7 năm (1760) thì chồng mất. Bà cô đơn góa bụa bèn lên kinh đô dạy học, được gọi là Nữ Học sư. Năm 60 tuổi bà về ở với em là Đoàn Doãn Y rồi mất, thọ 74 tuổi

THỜI KỲ VÀO MIỀN TRUNG

Trong họ Nguyễn ta ngày nay còn lưu hành tư liệu nói về thủy tổ họ Đoàn khi vào miền Trung.

Tập gia phả “ Đoàn tộc trước kia và họ Nguyễn ngày nay” do ông Nguyễn Thành Công ở Quy Nhơn lập ngày 10 tháng 01 năm 1990. Ông Công là cháu trực hệ 5 đời thuộc chi ông Đoàn Công Điêu, có nói rằng: dựa vào những bản gia phả cũ truyền lại, sơ lược như sau:

Ông Đoàn Công Luân sinh 4 người con là Đoàn Công Chấn, Đoàn Công Đại, Đoàn Công Điêu và Đoàn Công Hòa. Bốn ông này đứng lên chống lại chúa Trịnh, bị đàn áp. Ông Đoàn Công Chấn bị giết, ba ông còn lại phải bỏ trốn vào Đàng Trong nơi huyện Tuy Viễn (không phải Tri Viễn như tập gia phả đã ghi), phủ Hoài Nhơn. Các ông đã thay tên đổi họ khai khẩn lập làng, nay là làng Đại Lợi, xã Cát Nhơn, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.

Ông Đoàn Công Đại đổi tên là Nguyễn Văn Thành.

Ông Đoàn Công Điêu đổi tên là Nguyễn Văn Trung

Ông Đoàn Công Hòa đổi tên là Nguyễn Chuẩn Trực.

Về hai ông Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Văn Trung định cư ở đây sanh con đẻ cháu cho đến ngày nay. Trong đó ông Nguyễn Xuân Viên tức Tú Kiên, đổ Tú tài, theo phong trào Duy Tân hoạt động, bị Pháp

bắt đày đi Côn Đảo và chết ở đảo ngày 27 tháng 11 năm 1939. Người em gái là Nguyễn Thị Hiệu gả cho ông Đào khả Ái, cháu nội cụ Đào Tấn, nhà soạn tuồng nổi tiếng.

Về ông Đoàn Công Hòa (Nguyễn Chuẩn Trực) sanh 4 người con, trong đó có ông Nguyễn An Nghi.

Ông Nguyễn An Nghi lớn lên lập gia đình với bà Nguyễn Thị Chuân, sanh hạ 3 con là Nguyễn Thị Thắng, Nguyễn Sơn Phiên và bà Tư Thừa rồi bỏ vào Nam với ý đồ lập đồn điền lâu dài, ông lập gia đình lần hai với bà Dương Thị Tiền tức là ông bà tổ phụ mẫu chúng ta bây giờ.

THỜI KỲ KHAI CANH TẠI MIỀN NAM

Ông Nguyễn An Nghi, sanh năm Giáp Thân 1824, nguyên quán ở thôn Liêm Lợi, tổng Háo Đức Hạ, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ở nguyên quán ông có 3 người con rồi một mình đi vào Nam lúc độ ngoài 30 tuổi. Khi ấy ở Nam Kỳ giặc Pháp chưa đến.

Ở Nam Kỳ ông kết duyên với bà Dương Thị Tiền, người thôn Phước Quảng, thuộc tổng Long Hưng Trung, huyện Tân Long, phủ Tân Bình, (nay là một ấp của xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Ông mất tại đây năm 1886, thọ 62 tuổi

Tháng 3 năm 1861, Pháp chiếm huyện lỵ Phước Lộc (Cần Giuộc). Như đa số người dân lưu tán đi khai cơ lập nghiệp khác, ông cũng lâm vào hoàn cảnh:

“Mấy dặm Gò Đen, Rạch Kiến, ngọn lửa thiêu sự nghiệp sạch không

Đòi nơi Rạch Lá, Gò Công, trận gió quét cửa nhà trống rỗng…”

(Nguyễn Đình Chiểu)

Đây là lúc các cuộc khởi nghĩa nổi lên chống Pháp do Trần Kỳ Phong, Huỳnh Khắc Nhượng, Bùi Quang Diệu, Phạm Tiến, Trương Định lãnh đạo đã diễn ra ở vùng này, ông Nghi tham gia nghĩa quân của tướng Trương Định, khi Tướng quân hy sinh nghĩa binh tan rả, ông Nghi về sống tại quê vợ. Khi mất ông được an táng tại thôn Phước Quảng, quê vợ Dương Thị Tiền. Sau này, ngày 24 tháng chạp năm 1993, con cháu ông Bảy Cư đã cải táng về khu thổ mộ gia đình ở Tân Xuân, huyện Hóc Môn.

Bà Dương Thị Tiền sanh năm Đinh Dậu 1837, ở thôn Phước Quảng, nơi có con rạch Bà Đắc chảy ngang làm ranh giới với thôn Phước Vân. Ngày nay ở vùng này còn nhiều người họ Dương nhưng không ai biết rõ về bà. Qua khảo sát chúng tôi được các người họ Phan ở đây (là cháu nội của Phan Công Danh, Phan Công Giáo ) cho biết: Thân mẫu bà Dương Thị Tiền họ Phan, là em của ông Phan Long Đủ, Ông Đủ sanh ra Phan Công Danh, Phan Công Giáo (Hương bộ Giáo) thuộc gia đình trung

lưu ở Phước Quảng. Khi ông Nghi mất được họ Phan lo liệu nhiều mặt và cho an táng nơi ruộng họ Phan. Nay dấu vết vẫn còn sau khi đã cải táng. Khoảnh ruộng nầy diện tích 1 mẫu 6,2 cao được ông Cư mua lại của họ Phan và cúng cho đình Phước Quảng. Ngày nay, tuy ruộng đã thuộc về nông dân nhưng ngoài nghĩa vụ thuế, họ vẫn trích nộp hoa lợi vào quỹ của Đình.

Khoảng cuối đời, bà Tiền lên Sài Gòn sống tại Chiêu Nam Lầu với các con và mất năm 1905, sau ông Nghi 19 năm, thọ 68 tuổi. Mộ bà được an táng tại nghĩa địa Chí Hòa. Qua năm 1929, ông Cư lại cải táng về Tân Xuân và ngày nay phần mộ ông bà đã được nằm cạnh nhau.

Trong các sách báo, tư liệu, người ta thường viết: “ gốc ông Nguyễn An Ninh ở Phước Lý, huyện Cần Giuộc, Long An; cũng có nơi nói ở Mỹ Huề huyện Hóc Môn”. Nhân đây cũng xin nói lại cho rõ; Thực tế tổ phụ Nguyễn An Nghi lúc mới vào ở Phước Lý, sau lấy vợ về ở Phước Quảng. Phước Quảng là tên một thôn xưa, nay đã sáp nhập thành ấp 2 xã Phước Lợi, gọi theo dân gian là xứ Gò Đen. Nơi đây có con đường làng (Route communal n0 15). Từ Gò Đen qua rạch Bà Đắc đi Phước Vân, Long Sơn. Nếu vạch một đường từ tây sang đông ta sẽ có Phước Lợi, Phước Lý, Long Thượng.

Ngày nay, Phước Lợi thuộc huyện Bến Lức, Phước Lý và Long Thượng thuộc huyện Cần Giuộc, Long An. Long Thượng là quê hương bà Trương Thị Ngự, vợ ông Nguyễn An Khương.

Địa danh Mỹ Huề phát âm trại của chữ Mỹ Hòa, từ thôn Mỹ Hòa (Cây Gỏ Đôi) nay thành ấp Mỹ Hòa thuộc xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn. Thực sự đất và nhà ông Nguyễn An Khương phần lớn thuộc thôn Trung Chánh, sau đổi là Trung Mỹ Tây, sát con đường làng (hương lộ 80) và một ít đất bên kia hương lộ thuộc thôn Mỹ Huề, đây cũng là nơi ở của vợ chồng nhà yêu nước Nguyễn An Ninh trong thời gian hoạt động chính trị. Hiện nay đất này thuộc phường Trung Mỹ Tây, Quận 12 (tách ra từ huyện Hóc Môn), thành phố Hồ Chí Minh.

Trong tập gia phả này, ta gọi tổ phụ Nguyễn An Nghi là đời I.

Đời II là các con của ông: Nguyễn Thị Xuyên, Nguyễn An Khương, Nguyễn An Cư.

Đời III là Nguyễn An Ninh (con ông Khương) và Nguyễn Thị Lạc (con ông Cư)

Đời IV là con ông Ninh và con bà Lạc

Đời V là các cháu nội, ngoại của ông Ninh và bà Lạc.

Hành trạng về cuộc đời của từng thế hệ xin xem ở phần phả hệ và ký sự sau.

KẾT LUẬN

Cây có cội, nước có nguồn. Chim có tổ , người có tông. Đó là chân lý, là truyền thống ngàn đời. Các họ tộc của nhân dân ta hiện nay ai cũng quan tâm, bức xúc tìm về cội nguồn của dòng họ mình.

Dòng họ chúng ta, nếu tính từ ông tổ Nguyễn An Nghi đến nay cũng mới được 5 đời, hậu duệ cũng không đông đảo mấy. Một mình đơn độc vào Nam, không có họ hàng nên lúc đầu ông sống cô đơn vất vả trăm bề ít người hiểu rõ. Chỉ biết một điều là ông giỏi về Nho y và đã đem kiến thức ấy truyền lại cho con mình. Việc tìm rõ nguồn cội là do ông Nguyễn An Cư từ năm 1940 và sau khi thống nhất đất nước 1975 Nguyễn An Tịnh đã dành 20 năm sưu tầm mới được sáng tỏ dần. Con cháu ngày nay mong muốn biên chép tiếp hành trạng các đời để báo hiếu tổ tiên và lưu truyền cho con cháu đời sau được biết, để giữ gìn truyền thống thanh danh dòng họ.

Thế hệ thứ hai họ Nguyễn có mặt đúng lúc người Pháp đặt ách thống trị lên nhân dân ta, luồng gió “văn minh” Tây phương thổi đến. Thời cuộc diễn biến khá phức tạp. Nếu những ai đó ý chí không vững vàng, không cương quyết, không vượt nổi số phận sẽ dễ dàng bị vấp ngã, bị vùi dập và tiêu tan. Nhưng người họ ta không dễ bị khuất phục, cuộc đời và sự nghiệp đã lộ ra nhiều yếu tố sáng chói khác thường.

Ông Nguyễn An Khương am hiểu Nho y, thông thạo Nho học quốc ngữ, lại có chí lớn. Ngoài đời dốc hết tâm lực gầy dựng cơ sở cách mạng, tổ chức kinh tài, dựng Chiêu Nam Lầu giúp phương tiện, tiền bạc, đưa thanh niên đi du học nước ngoài, bàn việc quốc gia đại sự với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Thần Hiến, Võ Hoành, Nguyễn Quyền và là bạn thân thiết với Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Sinh Huy, viết báo, dịch truyện Tàu, vv… Bên trong gia đình thì giáo dục con cái giữ nếp gia phong, cách ở trong đời cho đến việc đặt tên con. Nhất là hun đúc tinh thần yêu nước cho con trai duy nhất là Nguyễn An Ninh – từ ý câu “Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục” (thà chịu chết không chịu nhục) -.

Ông Nguyễn An Cư là người giỏi y thuật, sớm năng nổ kinh doanh bằng nghề y, mở nhà thuốc, coi mạch, cho toa, bốc thuốc có tiếng giàu có, khắp vùng Hốc Môn – Bà Điểm ai cũng biết danh. Về chí hướng và chánh kiến, ông Cư có điều khác với ông Nguyễn An Khương. Điều mà trong họ đau buồn, nhân dân còn tiếp tục phê phán ông Cư là chổ ông Cư theo Nhật, mang tiếng là Việt gian là việc làm sai chính trị. Về nội bộ gia đình cũng có những việc tạo ra sự mâu thuẫn, bắt đầu từ những việc như:

ông Bảy Cư đến xem mạch trị bệnh cho cụ Phan Châu Trinh, đòi tiền khám bệnh, bị ông Sáu Khương mắng là kẻ thất đức. Tiếp theo là việc khi gia đình Nguyễn An Ninh bị bắt buộc sống biệt xứ ở Mỹ Tho, rồi lại bị bắt lần chót vào tháng 9 năm 1939 thì ông Cư sai người đến hạ

bảng hiệu, không cho bà Ninh làm đại lý bán thuốc nữa. Việc bà Xuyên lâm bệnh sắp mất, nằm liệt giường, ông Cư là em ruột, mà từ chối không chịu đến giúp đỡ và chăm sóc dù nhà ông cũng đang ở Hóc Môn, về sau lại để thất lạc mộ bà Xuyên khi chế độ Ngô Đình Diệm chiếm khu đất xây nhà thờ giáo xứ Bạch đằng. Điều này người trong họ ai cũng biết, nói ra là rất khổ tâm, không ghi lại thì con cháu không rõ những gì là phải trái, làm cơ sở cho việc hóa giải hiện nay trong họ tộc.

Từ các việc trên vào thời ấy giữa hai anh em và con cháu đã giận nhau.

Ông Cư có con nuôi là Nguyễn An Ngỡi, theo Pháp , bị Việt Minh giết.

Hiện nay, khu lưu niệm Nguyễn An Ninh đã có chủ trương của chính quyền thành phố sẽ được xây dựng vào năm 2000 để ghi nhớ công lao của “Nhà cách mạng yêu nước có tầm vóc lịch sử”. Riêng phần gia đình sau khi đã xuất bản tập “Nguyễn An Ninh”, tập Hồi ký “Cùng Anh đi suốt cuộc đời” của bà Trương Thị Sáu và nay lại dựng bộ Gia phả cho tộc họ mình. Nhờ sự giúp sức tích cực của Nhóm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả thành phố Hồ Chí Minh qua việc sưu tầm tư liệu, phỏng vấn nhiều người, đi điền dã nhiều nơi liên tục trong ba tháng từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1999. Nay bộ Gia phả họ Nguyễn ở Trung Chánh và họ Trương ở Phước Lại đã hoàn thành, xin kính dâng lên Ông Bà và công bố cùng thân tộc.

Mục đích dựng Gia phả không phải để phô trương thanh thế, không phải để ỷ lại tâng công hoặc phê phán khen chê tổ tiên, ông bà mà để làm một bộ “Sử gia đình” ghi chép trung thực, khách quan, khoa học những điều cần thiết trong phạm vi dòng họ để biết về nguồn cội tổ tiên, nhớ ngày húy kỵ, mồ mả ông bà. Lấy đó để soi rọi bản thân hầu học tập điều hay, lẽ phải, loại bỏ những điều dở nếu có để con cháu ta dù có làm gì, ở đâu cũng tránh được việc sái quấy không làm tủi hổ vong linh Ông Bà. Mong rằng con cháu dù nội hay ngoại cũng đều là máu mủ, ruột rà nên hãy đoàn kết, thương yêu nhau, chị ngã em nâng, môi hở răng lạnh. Hơn nữa, gia đình ta thuộc hàng danh giá, ta phải có trách nhiệm giữ gìn và phát huy gia phong, gia đạo, gia pháp và truyền thống yêu nước, cách mạng sáng chói đã được lịch sử công nhận. Càng nên nhớ câu “ Giấy rách phải giữ lấy lề” bởi gia đình có nề nếp, bền chặt keo sơn thì xã hội mới tốt đẹp bền vững ngàn đời.

Xin mượn lời của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh nói về văn hóa truyền thống dân tộc để kết luận bài này :

Nếu như những vĩ nhân đã chết vẫn đang dìu dắt số phận một dân tộc, thì cũng phải nói rằng tất cả những người quá cố khác không

phải không có tác dụng gì đối với những người đang sống. Mỗi người quá cố đang góp phần vào việc xây dựng nhân cách cho con cháu, trước hết từ trong dòng họ mình” (1)

Cây có gốc mới nở cành xanh lá

Nước có nguồn mới biển cả sông sâu

Người ta nguồn gốc từ đâu?

Gốc từ Tiên Tổ rồi sau có mình…

_____________________

(1)Trích trong quyển “Nguyễn An Ninh tác phẩm”, trang 155, bài “Trật tự và hổn loạn”.

PHẢ HỆ


ĐỜI I

NGUYỄN AN NGHI

Giáp Thân 1824-Bính Tuất 1886

Giỗ mùng 08 tháng 7 âm lịch

DƯƠNG THỊ TIỀN

Đinh Dậu 1837 – Ất Tỵ 1905

Giỗ mùng 10 tháng 7 âm lịch

Ông Tổ Nguyễn An Nghi vốn người ở Bình Định, đã có vợ và 3 con ở đó. Ông là người có học, được dòng họ cử làm Lý trưởng, ông vốn không thích nên khi vua Tự Đức cho phép dân khai phá đồn điền ở Nam Kỳ, ông quyết tâm tạo cơ nghiệp nên bỏ làng vào Nam khi tuổi độ ngoài 30. Lúc đó là thời kỳ đầu niên hiệu Tự Đức trước khi người Pháp đến.

Ông lập gia đình lần nữa với bà Dương Thị Tiền, người thôn Phước Quảng (2).

Khi Pháp chiếm Nam Kỳ, nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại sự xâm lược, ông tham gia nghĩa quân Trương Định. Ông là một danh y, một nhà nho hiểu biết và yêu nước.

Ông Nghi khi mới vào Nam ở thôn Phước Lý, sau khi kết hôn với bà Tiền ông về ở Phước Quảng quê vợ. Ông mất năm Bính Tuất 1886, thọ 62 tuổi. Lúc này bộ máy cai trị của người Pháp đã bố trí xong ở Nam Kỳ Lục tỉnh, ông thất chí, thường than thân trách phận lúc cuối đời. Mộ ông được táng trong đất của họ Phan ( thân tộc của bà Dương Thị Tiền) xây bằng đá xanh. Đến ngày 24 tháng chạp 1993, con gái ông Cư, vâng theo di huấn của cha đã thiên táng về Tân Xuân đặt nằm gần mộ bà Dương Thị Tiền, nơi ông Cư chọn làm khu mộ táng cho mình.

Bà Dương Thị Tiền người thôn Phước Quảng, không rõ gốc gác, chỉ biết thân mẫu bà là họ Phan. Bà Tiền gọi ông Phan Long Đủ là anh con Cậu. Con ông Đủ là Phan Công Danh, Phan Công Giáo cùng giao du với Nguyễn An Cư. Ông Phan Long Đủ là người giúp an táng ông Nguyễn An Nghi trong đất nhà mình. Ông mất trước do tuổi già. Bà sống với con gái là Nguyễn Thị Xuyên nơi Chiêu Nam Lầu rồi mất năm 1905. Mộ bà được an táng tại nghĩa địa Chí Hòa. Đến năm 1929, ông Cư mới cải táng về đất nhà ở Tân xuân, dựng mộ bia có khắc chữ Nho. Ngày nay mộ ông bà được táng song hồn.

Ông Nguyễn An Nghi và bà Dương Thị Tiền sanh hạ 3 người con: 1 nữ 2 nam (lấy thứ tự tiếp theo 3 người con trước của ông ở Bình Định):

Thứ năm : Nguyễn Thị Xuyên (1856 -1940)

Thứ sáu : Nguyễn An Khương (1860 – 1931)

Thứ bảy : Nguyễn An Cư (1864 – 1949)

----------------------

(2) Phước Quảng: tên thôn xưa thuộc tổng Long Hưng Trung, Huyện Tân Long, phủ Tân Bình. Thời Pháp thuộc là tổng Phước Điền Thượng, tỉnh Chợ Lớn, Ngày nay Phước Quảng đã sáp nhập vào xã Phước Lợi thuộc huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Xin xem phần phụ lục về địa giới thôn Phước Quảng.

ĐỜI II

CON ÔNG NGUYỄN AN NGHI VÀ BÀ DƯƠNG THỊ TIỀN

5. NGUYỄN THỊ XUYÊN

(1856 – 1940 )

Bà Nguyễn Thị Xuyên là con gái thứ năm của ông Nguyễn An Nghi và bà Dương Thị Tiền, bà sanh năm 1856 Bính Thìn, mất năm 1940 Canh Thìn.

Bà sống độc thân, không chồng con. Khi còn trẻ bà phụng dưỡng cha mẹ già. Sau khi cha mất, bà cùng mẹ và các em về sống tại Tân An. Bà giúp em là ông Khương tổ chức in sách dịch. Sau này đã thay em là An Khương quản lý khách sạn Chiêu Nam Lầu nên bà còn được gọi là bà Chiêu Nam Lầu. Chiêu Nam Lầu lúc đầu là tiệm may và cho thuê phòng trọ, sau mở thêm tiệm cơm để lấy tiền giúp đở cho phong trào Duy Tân và Đông Du.

Ông hoàng Cường Để rất mến mộ bà, người phụ nữ đẹp, giỏi giang, có học và đầy nghị lực, hết lòng giúp đở các nhà yêu nước trong phong trào Đông Du. Mỗi lần ở Nhật bí mật về Sài Gòn, ông đều tá túc tại Chiêu Nam Lầu gặp gở đàm đạo với bà, và cũng không ít lần bọn Pháp rình rập bắt ông, bà Chiêu Nam Lầu đều tổ chức cho ông trốn thoát.

Thời gian đó có vị khách trọ là một ông Hoàng người Miến Điện tên là Mangoon do hoạt động yêu nước chống lại chủ nghĩa cai trị của đế quốc Anh nên bị trục xuất khỏi Miến Điện, ông Hoàng sang Sài Gòn sống, lúc đầu ở khách sạn Continental, sau đó hết tiền bị đuổi ra khỏi khách sạn. Có một người bồi Việt Nam mách với ông hãy đến khách sạn Chiêu Nam Lầu, bà chủ là người phúc hậu, có thể trợ giúp cho ông. Ông đến Chiêu Nam Lầu và được cưu mang cho đến lúc chết. Ông tạ ơn bà bằng cách cho bà một toa thuốc gia bảo của Miến Điện và hướng dẫn cách nấu dầu cù là. Năm 1931, Khi ông Nguyễn An Ninh ra tù lần thứ hai, bà Ninh có cô Năm Xuyên hướng dẫn nấu dầu cù là để sinh sống, lấy nhãn hiệu là cù là An Ninh. Ông Ninh sau đó vịn cớ đi bán dầu suốt 3 năm cùng với ông Nguyễn Văn Trân từ năm 1932 đến năm 1935 đi khắp Nam kỳ để bàn giao cốt cán Thanh Niên Cao Vọng cho Đảng Cộng Sản. Sau này một số đảng viên khác cũng bắt chước đến nhận dầu cù là của bà Năm Xuyên và bà Ninh đi bán để che mắt bọn mật thám khi đi vận động quần chúng.

Năm 1926, khi Chiêu Nam Lầu bị khủng bố gắt gao không còn hoạt động, bà về quê ở cùng em Nguyễn An Khương nơi Mỹ Huề. Năm 1939 bà đau nặng - lúc này Nguyễn An Khương đã mất, còn gia đình Nguyễn An Ninh bị lưu đày ở Mỹ Tho - em ruột là Nguyễn An Cư không chăm sóc gì nên bệnh ngày càng nặng. Đến khi bà Ninh hay tin thu xếp về thì đã quá muộn, bà mất năm 1940, trong nhà không còn tiền lo hậu sự, phải nhờ bạn bè làng xóm giúp đỡ. Mộ bà nằm trong đất nhà. Năm 1955, đất bị chính quyền cũ trưng dụng làm khu giáo xứ. do em và cháu ở tại đây sơ suất không di dời nên mộ bà đã bị thất lạc và không còn ai nhớ ngày mất vì vậy cũng không cúng giỗ.

clip_image002

6. NGUYỄN AN KHƯƠNG

1860 – 1931

Giỗ ngày 15 tháng 12 âm lịch

1. TRƯƠNG THỊ NGỰ

(1873-1911)

Giỗ ngày 26 tháng 5 âm lịch

2. MAI THỊ NỮ (1887- 1968)

Giỗ ngày 22 tháng 2 âm lịch

clip_image004 clip_image006

Di ảnh ông Nguyễn An Khương Di ảnh bà Trương Thị Ngự

Ông Nguyễn An Khương là con trai thứ sáu của ông Nguyễn An Nghi và bà Dương Thị Tiền. Ông sanh năm Canh Thân 1860, mất ngày 15 tháng 12 Canh Ngọ (nhằm ngày 02-02-1931 dương lịch).

Ông có hai bà :

- Bà Trương Thị Ngự sanh năm Quý Dậu 1873, mất ngày 26 tháng 5 Tân Hợi (nhằm ngày 22-6-1911 dương lịch).

- Bà Mai Thị Nữ sanh năm Đinh Hợi 1887, mất ngày 22 tháng 2 Mậu Thân (1968).

Ông tinh thông Hán học, y học, giỏi chữ quốc ngữ, có tinh thần yêu nước, nhiệt tình hưởng ứng phong trào Duy Tân. Ông mở trường dạy học ở Tân An, tự soạn sách giáo khoa dạy cho trẻ nhỏ, dịch truyện Tàu để nuôi sống cả gia đình. Sau khi lấy vợ và có con trai đầu đến tuổi đi học, ông quyết định lên Sài Gòn cho con vào trường và thực hiện ước mơ gầy dựng sự nghiệp. Vào cuối thế kỷ XIX, ông tạo lập khách sạn Chiêu Nam Lầu tại đường Kinh Lấp (nay là đường Nguyễn Huệ). Chiêu Nam Lầu sau đó là cơ sở của phong trào Đông Du ở Nam Kỳ, giúp phương

tiện và tiền bạc đưa thanh niên ra nước ngoài học tập để về phụng sự Tổ quốc. Khoảng năm 1900-1910, ông tham gia làm báo, ông dịch nhiều sách Tàu trước đó, có tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam vào thời kỳ chữ quốc ngữ mới phôi thai, như: Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thủy Hử, Phấn Trang Lầu, Tiết Nhơn Quý Chinh Đông, Tiết Đinh San Chinh Tây in ra chữ quốc ngữ, lưu hành trước Cách mạng Tháng Tám (xem tiểu sử phần phụ lục). Ông là người đã hun đúc tinh thần yêu nước cho con mình là Nguyễn An Ninh. Ông ở nhiều nơi như thị xã Tân An, Sài Gòn, Sau khi vợ mất, khoảng năm 1911 thì mua đất cất nhà ở Mỹ Hòa thuộc huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định và ở đó cho đến cuối đời.Vợ ông là bà Trương Thị Ngự, con ông Trương Dương Lợi (Thuộc Viên Lợi) ở làng Long Thượng, tổng Phước Điền Thượng, tỉnh Chợ Lớn. Đây là một gia đình giàu có, ruộng đất nơi Long Thượng và Tân Quý Tây có hơn trăm mẫu. Ngày 08-01-1925 gia tộc đứng ra tương phân ruộng đất, lúc này bà Trương Thị Ngự đã mất, ông Ninh thuộc hàng cháu ngoại nên được chia 7 sở ruộng ở Long Thượng và một sở ở Tân Quý Tây, cộng chung là 9ha 27a 20 và ông Nguyễn An Khương lúc ấy đã 64 tuổi ký nhận thay cho con là Nguyễn An Ninh vắng mặt. Trong những năm hoạt động cách mạng, đất này vắng chủ, những người trong dòng họ chiếm đoạt sử dụng, hiện nay không rõ ai làm chủ số đất này, các con ông Nguyễn An Ninh cũng không ai lên tiếng đòi lại.

Bà Trương Thị Ngự cùng chồng tạo lập và quản lý Chiêu Nam Lầu, nên bà Ngự thường xuyên sống tại Chiêu Nam Lầu cùng với mẹ chồng được bà Xuyên phụ giúp. Bà mất năm 1911 sau cơn bệnh nặng. Thân phụ bà là cụ Trương Dương Lợi quá thương con gái nên cho an táng ở đất nhà Long Thượng. Sau Cách mạng Tháng Tám, con cháu đều đi kháng chiến nên không ai cúng giỗ. Sau năm 1975, bà Ngự được Nhà nước truy tặng “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. (kèm bản khai tử bà Ngự - Tông chi họ Trương).

clip_image008

Danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng

clip_image010

Bản khai tử bà Trương Thị Ngự

phả đồ 

clip_image014

Bảng phân chia ruộng đất hương hỏa

clip_image016

clip_image018

Giấy tương phân ruộng đất

clip_image020

clip_image022 clip_image024

MỘ BÀ TRƯƠNG THỊ NGỰ Ở LONG THƯỢNG MỘ ÔNG TRƯƠNG DƯƠNG LỢI

THÂN PHỤ BÀ TRƯƠNG THỊ NGỰ

clip_image026

Bia mộ bà Trương Thị Ngự

Con của ông Nguyễn An Khương và bà Trương Thị Ngự:

Thứ hai : Nguyễn An Thái

Thứ ba : Nguyễn An Thường

Thứ tư : Nguyễn Thị Năng

Thứ năm : Nguyễn An Ninh.

Ba người con đầu chết lúc còn nhỏ, còn lại một mình Nguyễn An Ninh.

Bà Ngự mất, ông Khương về Hóc Môn sống và tục huyền với bà Mai Thị Nữ, quê ở Xuân Thới Thượng. Hai người ở với nhau không con. Bà Nữ có một con riêng được ông đùm bọc, nuôi dưỡng, đổi tên lại là Nguyễn An Hải.

Sinh thời ông Khương rất chú trọng đến việc dạy dỗ con cháu học chữ Nho, nên từ nhỏ Nguyễn An Ninh đã được gửi ở với ông Ngoại có thầy dạy chữ Nho, đến 10 tuổi ông mới cho lên Sài Gòn học, ngay việc đặt tên cho con cháu sao cho đẹp, có ý nghĩa và phải viết được bằng chữ Nho. Con trai phải có chữ An, con gái phải có chữ Thị, được con cháu

noi theo.Về già ông bị bệnh bán thân bất toại do tai biến mạch máu não ba lần, hai lần đầu còn tỉnh nên tự cứu được, lần sau hôn mê nên không qua khỏi. Mộ ông được táng trong đất nhà trên một gò cao. Năm 1955 đất bị trưng dụng như đã nói trên nên, mẹ con bà Nữ cải táng về phần đất mà ông Khương đã chia cho bà Nữ thuộc làng Mỹ Hòa bên kia hương lộ 80 chỉ cách một con đường làng, khu đất này trước đây ông khương xây nhà cho Nguyễn An Ninh sau khi Ninh cưới vợ. Lúc ông bệnh nặng đã làm giấy tặng cho bà Nữ, hiện nay con cháu bà Nữ vẫn còn ở nhưng đã bán gần hết khu đất này.

Hiện nay mộ ông Khương vẫn còn nằm trên đất của Lê Văn Khải là cháu cố bà Mai Thị Nữ phía sau ngôi nhà số 150/2 đường Nguyễn Ảnh Thủ. Còn mộ bà Trương Thị Ngự các cháu nội đã cải táng đưa hài cốt từ Long Thượng về tại Nhà Tưởng Niệm Nguyễn An Ninh năm 2002

clip_image027

7. NGUYỄN AN CƯ

(1864 – 1949 )

Giỗ ngày 12 tháng 7 âm lịch

1.TỐNG THỊ ĐỨC

2. CAO THỊ THÌNH (1879 -1949)

Giỗ ngày 10 tháng 01 âm lịch

clip_image029 clip_image031

Di ảnh ông Nguyễn An Cư Di ảnh bà Cao Thị Thình

Ông Nguyễn An Cư là con trai thứ bảy của ông Nguyễn An Nghi và bà Dương Thị Tiền. Ông sanh năm Giáp Tý 1864, mất ngày 12 tháng 7 năm Kỷ Sửu 1949, tại Phước Quảng, hiệu là Sàng Phu.

Ông thừa hưởng sự nghiệp Nho, y của thân phụ lại được anh kèm cặp dạy dỗ nên tinh thông y thuật. Lớn lên ông theo anh về Trung Chánh rồi sống tự lập với ngành y, mở nhà thuốc hiệu An Thanh Đường, sau đổi là Nguyễn An Cư Dược Phòng ở chợ Hóc Môn. Ngày nay còn truyền tụng phương thuốc rượu số 39 ( vì toa thuốc có 39 vị thuốc). Ông dạy nhiều học trò như Trần Kim Hoằng, Kiều Văn Thanh, Nguyễn Trung Hòa, v.v… đi xem mạch, bốc thuốc khắp nơi. Sau này ông sửa gọt lại các bản dịch truyện Tàu của Nguyễn An Khương và in ra phổ biến.

Người vợ đầu là Tống Thị Đức ở với ông 6 năm nhưng không có con nên họ chia tay nhau. Bà theo đạo Tin Lành, khi mất được an táng ở đất Thánh họ đạo tại Thị trấn Hóc Môn.

Người vợ kế là Cao Thị Thình, sinh năm Kỷ Mão 1879, mất ngày 10 tháng 01 năm Kỷ Sửu (1949), người Hoa sống ở chợ Hóc Môn. Hai ông bà có 2 con, 1 nam và một nữ.

Ngoài việc trị bệnh, ông cũng hay về quê cha mẹ ở Phước Quảng, giao du thân thiết với các vị cùng trang lứa như ông Lưu Văn Mảng (Cả Mãng), Phan Văn Giáo (Hương trưởng Giáo) và Hồ Văn Tư (Hương cả Cu). Do đó ông mới gả con gái cho con ông Cả Cu là Hội đồng Hồ Văn Thuộc. Ông lại mua ruộng của họ Phan và hiến cho đình Phước Quảng vào năm 1940. Ngày nay, ruộng ấy thuộc chủ quyền nông dân sở tại.

Ông nghiện thuốc phiện nặng, tài sản sau này đều bị nướng vào bàn đèn nha phiến.

Sách thuốc của ông cũng khá nhiều. Sau 1975, con gái ông đã hiến cho Hội Y học Dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh, gồm 23 tựa sách, do ông Nguyễn Trung Hòa là học trò cũ ký nhận.

Sinh thời vào tháng 12 năm 1926, ông có mua một khoảnh đất 1067m2 của ông Phạm Văn Thắng và bà Trần Thị Đước ở làng Tân Thới Trung ( nay là ấp Chánh, xã Tân Xuân ) để làm ngôi sinh phần cho mình. Khu mộ ông được xây tường bằng đá xanh, mỗi cạnh 11m (121m2 ). Đây là nơi yên nghỉ của ông bà và của tổ phụ Nguyễn An Nghi – Dương Thị Tiền cùng vài thân nhân khác. Khu đất ấy ngày nay chỉ còn 500m2 vì đã sang nhượng bớt. Hiện giờ cháu ngoại của ông là Nguyễn Thị Hoa đang ở đó.

Con của ông Nguyễn An Cư và Cao Thị Thình:

Thứ hai : Nguyễn An Nhàn, sinh năm Tân Hợi 1911, chết lúc 5 tuổi.

Thứ ba : Nguyễn Thị Lạc.

clip_image033

Khu mộ ở Tân Xuân Hóc Môn nơi an nghỉ cụ Nguyễn An Nghi, Nguyên An Cư

CHI ÔNG

NGUYỄN AN KHƯƠNG


ĐỜI III

CON ÔNG NGUYỄN AN KHƯƠNG & BÀ TRƯƠNG THỊ NGỰ

NGUYỄN AN THÁI

(1892 -1905)

Giỗ ngày 18 tháng 4 âm lịch

Ông Nguyễn An Thái là con thứ hai của ông Nguyễn An Khương và bà Trương Thị Ngự. Ông sanh ngày 8 tháng 6 năm Nhâm Thìn (1892), bệnh mất vào giờ thân, ngày 18 tháng 4 năm Ất Tỵ (1905) lúc đang đi học ở trường Collège Mỹ Tho. Mộ táng ở đất nhà tại Trung Chánh. Năm 1955 đất bị trưng dụng nên cải táng theo cha. Trước đây không biết ngày sanh, mất nay nhờ mộ bia viết bằng chữ Nho mới rõ ngày sanh, ngày mất của ông.(hiện mộ nằm chung trong khu mộ với ông Nguyễn An Khương ở phía sau ngôi nhà số 150/2 đường Nguyễn Ảnh Thủ)

NGUYỄN AN THƯỜNG

Ông Nguyễn An Thường là con thứ ba của ông Nguyễn An Khương và bà Trương Thị Ngự. Ông chết nhỏ, không còn nhớ năm sanh, năm mất. Mộ chôn ở quê ngoại Long Thượng, nay đã thất lạc.

NGUYỄN THỊ NĂNG

Bà Nguyễn Thị Năng là con thứ tư của ông Nguyễn An Khương và bà Trương Thị Ngự. Bà chết nhỏ, không còn nhớ năm sanh, năm mất. Mộ chôn ở quê ngoại Long Thượng, nay đã thất lạc.

NGUYỄN AN NINH

(1900 – 1943)

Giỗ ngày 14 tháng 8 dương lịch

TRƯƠNG THỊ SA (SÁU)

(1899 – 1983)

Giỗ ngày 29 tháng 10 âm lịch

clip_image035

Ông Nguyễn An Ninh là con thứ năm của ông Nguyễn An Khương và bà Trương Thị Ngự. Ông Nguyễn An Ninh (hộ tịch ghi là Nguyễn Văn Ninh) sanh ngày 15 tháng 9 năm 1900, tại Long Thượng, mất ngày 14 tháng 8 năm 1943 (nhằm ngày 14-7 Quý Mùi) ở Côn Đảo. Ông mất hơn hai tháng gia đình mới biết tin, vừa kịp cúng 100 ngày của ông tại chùa Gò Vấp để vợ con chịu tang, cúng giỗ theo ngày dương lịch 14 tháng 8 là ngày bạn tù giỗ cho ông, và hiện nay lãnh đạo huyện Côn Đảo (BR-VT) vẫn cúng ngày đó.

Bà Trương Thị Sa (Sáu) quê ở Phước Lại, sanh ngày 26 tháng 6 năm 1899, mất ngày 03 tháng 12 năm 1983 (nhằm ngày 29-10 Quý Hợi) ở Thành phố Hồ Chí Minh, mộ táng ở Nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nay các con cúng giỗ theo âm lịch.

Thuở nhỏ ông Ninh học chữ Nho ở quê ông ngoại, đến 10 tuổi mới lên học ở Sài Gòn. Ông bẩm tính thông minh, hiếu học, 18 tuổi xuất dương du học ở Pháp. Năm 1920 đỗ Cử nhân Luật. Thời gian ở Pháp có dịp tiếp xúc với nhiều nhà cách mạng Pháp và liên hệ với Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc. Khi về nước ông bắt đầu hoạt động cách mạng trong thế hợp pháp. Ông đi diễn thuyết, làm báo, viết sách, lập hội kín, năm lần đi Pháp, năm lần bị bắt, bị tù, lần chót là ngày 04 tháng 10 năm 1939 bị kết án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo. Ở đảo

ông bị cách ly và kiệt sức, mất trong tù vào ngày 14 tháng 8 năm 1943. Mãi hơn 2 tháng sau tin từ bạn tù ngoài đảo đưa về, bà Sáu mới biết và đến chất vấn tên Bazin tại bót Catina thì chúng mới xác nhận điều đó. Ông là một nhà Cách mạng, nhà yêu nước vĩ đại suốt đời hoạt động không mệt mỏi.

Ông có một tủ sách lớn trên 2000 quyển, phần lớn là tiếng Pháp, sách về Chủ nghĩa Mác, văn học cổ điển, hiện đại của các nước nhờ người em rể họ đứng tên nhận giúp và sau năm 1945 do cháu vợ là Trương Văn Bang quản lý. Sau này ông Bang phân ra gửi cho họ hàng và chuyển vào chiến khu Rừng Sác nên bị giặc Pháp ruồng bố đốt sạch. Thật là tiếc cho tủ sách có một không hai ở Đông Dương thời ấy.

Bà Trương Thị Sa (lúc nhỏ gọi là Sò, trên giấy tờ gọi là Trương Thị Sáu). Cha là một người Hoa từ Trung Quốc sang, mẹ là người Việt ở Phước Lại. Bà là em út trong 5 anh chị em, mồ côi cha từ khi mới sanh. Gia đình lâm vào cảnh khó khăn, bà phải làm đủ mọi việc từ nhẹ đến nặng, cực nhọc trăm bề. Bà vốn tính cương quyết, không chịu nghèo hèn, quyết chí làm giàu từ tay trắng. Rời bỏ quê lên Sài Gòn sinh sống, bà tự lực làm ăn và dần dần khá lên từ đó. Rồi bà trở thành vợ Nguyễn An Ninh, về làm dâu ở nhà bên chồng. Bà trở thành người đồng chí của chồng trên con đường hoạt động Cách mạng, bà hy sinh cho lý tưởng của ông suốt cả cuộc đời.

Có thể nói rằng, đời hoạt động của ông Ninh có phần lớn công lao của bà. Bà vừa quán xuyến việc nhà, phụng dưỡng cha chồng, vừa thăm nuôi chồng, giúp đỡ bạn bè cùng hoạt động, vừa chăm sóc các con. Sau này tiếp tục sự nghiệp của chồng khi ông đã mất.

Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Pháp núp bóng quân Anh lấn chiếm Sài Gòn, bà tham gia cướp chính quyền ở Cần Giuộc rồi đưa các con về quê ở Phước Lại. Nhưng rồi quê hương cũng bị giặc kéo tới, theo gợi ý của cấp trên, bà đưa các con về lại Sài Gòn để chờ thời cơ tiếp tục hoạt động.

Sau Hiệp ước Sơ Bộ, bà tham gia công tác công khai do Xứ ủy lãnh đạo. Đến năm 1948, bà thoát ly ra khu, gởi các con lại cho bè bạn dưỡng nuôi. Năm 1951 bà vào Đảng Lao Động Việt Nam theo yêu cầu của Đảng. Năm 1954 bà tập kết ra Bắc, thành lập trường nuôi dạy con em cán bộ miền Nam. Bà đã đoàn tụ cùng các con ở miền Bắc và có dịp đi thăm các nước bè bạn trên thế giới. Sau năm 1975, mẹ con bà được đoàn tụ ở miền Nam. Bà nghĩ hưu từ năm 1970 và trở về thành phố Hồ Chí Minh cuối năm 1975. Bà là Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam suốt từ khóa một đến khi mất, đại biểu Quốc hội khóa hai, ba và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng I, Huân chương chống Pháp hạng I, Huân chương chống Mỹ hạng II.

clip_image037

clip_image039

clip_image041

Bằng Tổ Quốc ghi công của ông Nguyễn An Ninh

clip_image043

Huân chương Độc Lập hạng nhất của bà Sáu

Các con của ông Ninh và bà Sáu

Thứ hai : Nguyễn An Định

Thứ ba : Nguyễn Thị Bình

Thứ tư : Nguyễn An Tịnh

Thứ năm : Nguyễn Thị Minh

Thứ sáu : Nguyễn An Vĩnh.

(Có bài viết riêng về ông Nguyễn An Ninh và bà Trương Thị Sáu ở phần Ngoại phả)

ĐỜI IV

CON ÔNG NGUYỄN AN NINH VÀ BÀ TRƯƠNG THỊ SÁU

NGUYỄN AN ĐỊNH

1926

1. NGUYỄN THỊ VÂN

2. CHU THỊ SANG

3. NGUYỄN THỊ TỰ

Ông Nguyễn An Định là con thứ hai của ông Nguyễn An Ninh và bà Trương Thị Sáu. Ông sanh tháng 4 năm 1926 (Bính Dần).

Thuở nhỏ theo học ở trường Collège Mỹ Tho (thời kỳ ông Ninh bị đày biệt xứ) vì gạch bỏ chữ maréchal Pétain viết lại là maréchal ferrant (người đóng móng ngựa) nên bị đuổi học, được ông Huỳnh Cẩm Chương đem về cho học trường tư từ năm 1944. Ông Định giúp mẹ theo quản lý gánh hát và hoạt động Cách mạng nơi Hội Truyền bá Quốc ngữ. Năm 1946, ông Định thoát ly ra Khu về Trung đoàn 99 Bến Tre, Trung đoàn trưởng là Đồng Văn Cống, Chính trị viên là Võ Văn Thời (cha ông Thời là bạn cũ của ông Ninh, quê ở Quán Tre – Hóc Môn). Năm 1950 ông về Khu 9 công tác ở Đảng vụ Trung ương cục Miền Nam. Ở đó ông làm công tác văn hóa, văn nghệ và trình bày báo. Trước ngày thi hành Hiệp định Genève, ông được rút về để lập Đoàn Văn nghệ Nam Bộ, có viết và công diễn vở kịch “ Ánh Ngọc sáng trong rừng thiêng” rồi đi tập kết.

Thời gian ở khu 9, ông bị bệnh gai xương sống, nằm Quân y viện. Lúc đó, ông được bà Sáu Ngài, Bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc, gả bà Vân (là con nuôi thứ 6) cho. Ông được bà Vân tận tình chăm sóc nên bệnh dần khỏi. Hai người có 2 con gái. Ông tập kết ra miền Bắc, bà Vân ở lại, đến năm 1959 thì lấy chồng khác.

Ông công tác ở miền Bắc, năm 1969 nghe tin bà Vân lấy chồng, ông xây dựng gia đình với bà Chu Thị Sang, con gái ông Chu Hữu Thục là Chủ tịch Mặt trận Liên Việt huyện Đông Anh. Ông Thục thuộc tầng lớp địa chủ, trước có theo phong trào của Phan Bội Châu. Ông Định và bà Sang có 2 con trai, rồi ly hôn sau năm 1985.

Tập kết, ông công tác ở Bộ Văn hóa và được cữ sang Trung Quốc học. Sau khi tốt nghiệp đại học về Mỹ thuật Sân khấu ở Trung Quốc rồi về xưỡng mỹ thuật Sân khấu Trung ương và Đoàn xiếc Trung ương. Năm 1982 ông chuyển về Long An tập trung một số nghệ sĩ thành lập Đoàn xiếc Long An. Do cơ chế lúc đó chưa thoáng, việc quản lý tài chính không theo quy định, về trách nhiệm ông bị phê phán nên xin trở về văn phòng Bộ Văn hóa. Cuối năm 1983 ông được chuyển về Hội Văn

học nghệ thuật tỉnh Long An, làm giảng viên, viết báo, kịch, truyện ngắn. Đến năm 1987 ông nghỉ hưu.

Năm 1995, ông kết hôn lần 3 với bà Nguyễn Thị Tự ở Bà Điểm, sanh năm 1932 Nhâm Thân. Bà Tự là con gái của bà Tư Giã, một chiến sĩ Cách mạng thời 1930. Hai người không có con chung. Bà Tự có 6 con riêng, đều có gia đình nên sống riêng, chỉ có một người sống chung với cha mẹ tại số 40/10 ấp Hậu Lân, xã Bà Điểm – Hóc Môn. Ông Định làm nghề Đông y, có bài thuốc gia truyền Địa Long nổi tiếng.

Con ông Định và bà Vân:

- Nguyễn Thị Hồng Nga, sanh năm 1952, chết lúc 6 tuổi

- Nguyễn Thị Hồng Hoa, sanh năm 1954

Con ông Định và bà Sang:

- Nguyễn An Vinh, sanh năm 1973

- Nguyễn An Vịnh, sanh năm 1978.

clip_image002[1]

NGUYỄN THỊ BÌNH

(NGUYỄN THỊ THÁI BÌNH)

(1928 – 2013)

Giỗ ngày 24 tháng 02 âm lịch

TRƯƠNG CÔNG TÍN

1931

Bà Nguyễn Thị Bình là con thứ ba của ông Nguyễn An Ninh và bà Trương Thị Sáu, sanh tháng 11 năm 1928 Mậu Thìn. Tên ông nội đặt cho là Nguyễn Thị Thái Bình.

Thuở nhỏ học trường Áo Tím (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai), đỗ bằng Thành chung (Diplôme).

Năm 1945, bà Bình tham gia cách mạng. Năm 1948 theo gợi ý của tổ chức Cách mạng, Bà Bình xuất dương du học tự túc ở Pháp bằng con đường hợp pháp. Ở Pháp bà công tác trong giới Việt kiều và thành hôn với ông Trương Công Tín (em Giáo sư Trương Công Trung, người gốc ở Gò Công) sanh năm 1931 (Tân Mùi), Kỹ sư Nông học. Ông về nước năm 1959, ông đi B năm 1973, năm 1975 ông tiếp quản và làm Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Miền Nam, được phong hàm Giáo sư. Hiện ông nghĩ hưu và là Chuyên viên của Viện Khoa học Nông nghiệp Miền Nam.

Năm 1956, bà trở về miền Bắc Việt Nam, công tác ở khu gang thép Thái Nguyên, học tiếp lấy bằng Kỹ sư cơ khí và công tác tại Nhà máy cơ khí Hà Nội.

Sau năm 1970, bà chuyển công tác về Ban Quan hệ Quốc tế của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam, và sau năm 1975 công tác ở bộ phận quan hệ quốc tế của Hội Phụ nữ Giải phóng Miền Nam, rồi Trưởng phòng phát minh sáng chế thuộc Ủy Ban Khoa học Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh. Bà nghĩ hưu trước năm 1980 và là người chấp bút ghi hồi ký của mẹ Trương Thị Sáu vào năm 1975.

Các con bà Bình và ông Tín:

- Trương Công Dân, sinh năm 1956 đã có vợ và 2 con, đang sống với cha mẹ

- Trương Diệu An, sinh năm 1957 đã có chồng và 2 con, đang sống ở Tiệp Khắc

- Trương Thanh Phương, sinh năm 1964 đã có chồng và 2 con, đang sống tại thành phố Hồ Chí Minh.

Hiện nay gia đình bà Bình đang cư ngụ ở số 298A đường Huỳnh Văn Bánh, quận Phú Nhuận. Bà Bình mất ngày 04 tháng 4 năm 2013 nhằm ngày 24 tháng 02 âm lịch năm Quý Tỵ, hỏa táng gửi cốt tại chùa Đại Giác Phú Nhuận.

NGUYỄN AN TỊNH

(1932 – 2012)

Giỗ ngày 08 tháng 7 âm lịch

NGUYỄN THỊ ẤU TÔ

1936

Ông Nguyễn An Tịnh là con thứ tư của ông Nguyễn An Ninh và bà Trương thị Sáu, sanh tháng 12 năm 1932 Nhâm Thân.

Ông Tịnh học đến năm thứ 3 Trung học Pétrus Ký. Ông là một trong những người lãnh đạo phong trào học sinh chống chủ trương Nam Kỳ tự trị của Pháp. Sau vụ Trần Văn Ơn, ông Tịnh thoát ly ra khu 8, phục vụ ở phòng Vô tuyến điện Xứ ủy Nam Bộ. Năm 1952 ông ra miền Bắc và được đi học về vô tuyến điện ở Trung Quốc, lấy bằng Kỹ sư Vô tuyến điện. Năm 1957 trở về làm chuyên gia cho Đài Phát thanh Lào. Sau đó chuyển về Đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam.

Năm 1958, ở Hà Nội ông lấy vợ là Nguyễn Thị Ấu Tô, kỹ sư điện. Bà Tô sanh năm 1936, là con của một địa chủ kháng chiến ở Nghệ An, công tác ở Tổng Công ty Điện lực, hiện nay định cư ở Úc cùng con gái duy nhất

Năm 1972 ông Tịnh công tác ở Đài Truyền hình Trung ương, năm 1975 chuyển về Nam góp phần xây dựng Đài Phát thanh và Truyền hình Long An, làm Giám đốc mấy năm rồi nghĩ hưu.

Con gái là Nguyễn Thị An Thanh, sanh năm 1960, đỗ bác sĩ đi tu nghiệp ở Úc, rồi lấy chồng định cư luôn ở bên ấy. Ông Tịnh cũng sang Úc ở với vợ và con .

Ông mất ngày 24 tháng 8 năm 2012 nhằm ngày mùng 8 tháng 7 âm lịch năm Nhâm Thìn. Mộ chôn tại Sydney Australia.

NGUYỄN THỊ MINH

(NGUYỄN THỊ NGUYỆT MINH)

1935

NGUYỄN SƠN

1930

Bà Nguyễn Thị Minh là con gái thứ năm của ông Nguyễn An Ninh và bà Trương Thị Sáu, sanh tháng 7 năm 1935 Ất Hợi .

Bà học đến năm thứ 2 trường Trung học Áo Tím – Gia Long (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai). Sau khi tham gia đám tang Trần Văn Ơn, bà đã cùng 6 nam nữ sinh do Ngô Hồng Hạnh (em gái Ngô Hồng Giỏi) dẫn đầu thoát ly ra khu. Bà Minh công tác tại văn phòng Đảng vụ Trung ương Cục, sau chuyển sang văn phòng Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Nam Bộ.

Năm 1954, bà tập kết ra Bắc, được đi học văn hóa, tốt nghiệp Trung cấp Cơ khí và Trung cấp Vô tuyến điện. Lúc đầu công tác tại Nhà máy Cơ khí Hà Nội, sau chuyển về công tác ở Đài Phát thanh Tiếng Nói Việt Nam và Đài Pathét Lào. Bà kết hôn với ông Nguyễn Sơn, sanh năm 1930, gốc người ở Bình Thuận cũng là người tập kết.

Năm 1973, bà Minh đi B, vượt Trường Sơn trở về Nam, công tác ở Đài Phát thanh Giải phóng. Sau 1975 về Đài Truyền hình TP. Hồ Chí Minh. Đến năm 1980 chuyển qua Sở Công nghiệp làm Giám đốc Xí nghiệp May Sài Gòn 2(cũ). Năm 1985 chuyển làm Giám đốc Công ty Phát hành sách quận 1. Năm 1990 nghỉ hưu.

Ông Nguyễn Sơn sau 1975 mới chuyển về thành phố, công tác ở Ban Tư tưởng – Văn hóa Thành ủy. Ông nghỉ hưu năm 1998 với chức vụ là Phó ban Tư tưởng Văn hóa Thành ủy.

Các con bà Minh và ông Sơn :

- Nguyễn Sơn Thảo, sanh năm 1961, Kỷ sư cơ khí

- Nguyễn Sơn Thủy, sanh năm 1975, bị bệnh do di chứng của chất độc hóa học.

Hiện gia đình ngụ tại số 357A/24A, đường Nguyễn Trọng Tuyển, quậnTân Bình, TP. Hồ Chí Minh

NGUYỄN AN VĨNH

1938

MÃ THỊ DUNG

1955

Ông Nguyễn An Vĩnh là con trai thứ 6 của ông Nguyễn An Ninh và bà Trương Thị Sáu, sanh tháng 01 năm 1937 Đinh Sửu. Ông vừa học hết tiểu học chuẩn bị vào trường Pétrus Ký thì phải cùng chị Minh thoát ly ra khu. Ở khu được tiếp tục đi học trường trung học Nguyễn Văn Tố, rồi ra công tác ở Phòng Quân giới Nam Bộ. Năm 1954, ông Vĩnh tập kết ra Bắc và công tác ở Cục điện lực, được đi học ở Đông Đức 17 năm lấy bằng Tiến sĩ Quang học và Cơ khí chính xác. Năm 1973 trở về miền Bắc làm giáo sư Đại học. Năm 1975 chuyển về TP Hồ Chí Minh làm Trưởng bộ môn Cơ khí chính xác trường Đại học Bách khoa. Năm 1976 thành hôn với Mã Thị Dung, sanh năm 1955, người gốc Hoa, bà Dung tốt nghiệp Đại học Hóa Thực phẩm.

Các con ông Vĩnh và bà Dung:

- Nguyễn An Thịnh, sanh năm 1977

- Nguyễn An Phú, sanh năm 1989

Hiện gia đình đang cư ngụ tại nhà thờ gia tộc số 133 đường Nguyễn Văn Trổi, quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh

clip_image044

CHI ÔNG

NGUYỄN AN CƯ


ĐỜI III

CON ÔNG NGUYỄN AN CƯ VÀ BÀ CAO THỊ THÌNH

NGUYỄN THỊ LẠC

1914

1. HỒ VĂN THUỘC

2. NGUYỄN VĂN QUYỀN

Nguyễn Thị Lạc là con thứ ba của ông Nguyễn An Cư, sanh năm Giáp Dần 1914, đã mất.

Bà Lạc thuở nhỏ đi học trường đầm Marie Curie, thuộc lớp phụ nữ tân tiến, đi xe đạp, đánh tennis, mặc đồ giả trai. Bà có viết bài đăng báo Thanh niên Tân Tiến, Kỳ Lân báo của chủ bút Lê Thành Lư, bút hiệu là Hồng Lạc, Thiên Kim.

Người chồng đầu tiên là ông Hồ Văn Thuộc ở Phước Lợi (Gò Đen), con một nhà giàu. Thời trẻ là Công tử Thuộc, sau là ông Hội đồng địa hạt. Nhưng ở được ít lâu hai người thôi nhau. Bà sanh 1 gái đem về Hóc Môn sinh sống, nhưng sau con gái cũng chết nhỏ.

Bà tái giá với ông Nguyễn Văn Quyền (Năm Đô), người ở Phú Xuân , Nhà Bè, sanh ngày 16 tháng 12 năm 1912 (Nhâm Tý), mất ngày 31 tháng 8 năm 1959 (nhằm ngày 28 tháng 7 năm Kỷ Hợi), thọ 47 tuổi, Mộ táng chung với khu mộ ông Cư ở Tân Xuân .

Bà được ông Cư truyền nghề, vợ chồng bà mở tiệm thuốc Bắc ở đường Paul Blanchy (Phú Nhuận). Khi ông Quyền mất năm 1959, bà đưa các con về Hóc Môn ở cho đến nay, Bà Lạc có lúc bán xăng dầu nên gọi là bà Ba Dầu.

Con bà Lạc với ông Thuộc :

Hồ Thị Hối, sanh năm 1931, mất năm 1937. Mộ bia ghi chữ Nho: “Hồ Thị Hối, sinh Phước Lợi thôn, tử Tân Thới Nhì”, táng ở khu mộ của ông Cư.

Con bà Lạc với ông Quyền:

Thứ hai: Nguyễn Văn Nhe, sanh năm 1935, hy sinh năm 1968

Ông tham gia kháng chiến chống Pháp ở chi đội 12. Năm 1954 tập kết ra Bắc. Tháng 7 năm 1962 đi B, tiếp tục chiến đấu. Lấy vợ trong chiến khu là bà Phạm Thúy Hưởng, sanh năm 1944, người quê ở Tân An. Có 1 con trai.

Ông Nhe hy sinh ở Bình Mỹ trong chiến dịch Mậu Thân 2, được Nhà nước công nhận Liệt sĩ. Bà Hưởng công tác ở Công ty Bách hóa quận 6, đã nghỉ hưu, hiện còn sống.

Con trai là Nguyễn Hoàng Long, sanh năm 1964, đã có vợ con, ở với mẹ tại quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ ba: Nguyễn Thị Tài, sanh năm 1938. Chồng là ông Nguyễn Châu Mật, sanh năm 1928, quê ở Mỹ Tho. Hiện nuôi dưỡng mẹ Nguyễn Thị Lạc với nghề buôn bán ở đường Lê Lợi, Thị trấn Hóc Môn.

Các con của bà Tài và ông Mật

1 -Nguyễn Văn Trung, sanh năm 1959

2- Nguyễn Thị Hoài Mỹ, sanh năm 1961 chết lúc 14 tuổi

3- Nguyễn Thị Hoài Dung, sanh năm 1962

4- Nguyễn Thị Phương Lan (Hạnh), sanh năm 1965

5- Nguyễn Thị Anh Hồng , sanh năm 1969

6- Nguyễn Thị Anh Tuyết, sanh năm 1969

7-Nguyễn Thị Bạch Yến, sanh năm 1972

Thứ tư: Nguyễn Thị Hoa, sanh năm 1943, học lực Tú tài II. Chồng là ông Trương Văn Chánh, sanh năm 1940. Trước ở Lái Thiêu, sau 1975 mới về Tân Xuân, nơi phần đất xưa ông Nguyễn An Cư mua để làm khu thổ mộ. Hiện gia đình bà Hoa lo việc thờ cúng ông bà, chăm sóc khu mộ và tiếp tục tổ nghiệp Đông y.

Các con bà Hoa và ông Chánh:

1- Trương Thiên Hương, sanh năm 1965.

2- Trương Thiên Giang, sanh năm 1967, mất năm 1992

3- Trương Thiên Thanh, sanh năm 1968.

4- Trương Thượng Minh, sanh năm 1970, Kỹ sư điện công tác ở quận 12.

5- Trương Thượng Khánh, sanh năm 1972, Kỹ sư viễn thông, làm việc ở Bưu điện thành phố Hồ Chí Minh.

6- Trương Thiên Khanh, sanh năm 1975, Cử nhân Hóa, giáo viên trường Trung học cơ sở Xuân Thới Thượng.

7- Trương Thượng Phước, sanh năm 1977, sinh viên Đại học Bách Khoa

HỌ TRƯƠNG

Ở PHƯỚC LẠI – CẦN GIUỘC

(TRƯƠNG THỊ SÁU)


VỀ HỌ TRƯƠNG Ở PHƯỚC LẠI

Ông họ Trương là Trương Điều, thân phụ của các ông bà Thị Thu, Văn Thập, Thị Bá, Văn Điền và bà Thị Sa nguyên là người Hoa gốc Phúc Kiến, thuộc tầng lớp nghèo, đã có vợ con ở Trung Quốc. Họ Trương tham gia tổ chức Thái Bình Thiên Quốc, bị tru di tam tộc, trốn lên núi sống nghèo khổ. Nhân thời bấy giờ thuyền buôn Trung Quốc tới lui Nam Kỳ kinh doanh thương mại. Ông một mình sang Việt Nam lúc tuổi trung niên, để lại Trung Quốc vợ và một con. Đầu tiên ông dừng lại ở chợ Cần Giuộc làm nghề buôn bán vải dạo, tích lũy dần dần mà có của ăn của để.

Nhờ tính cần cù, chịu thương chịu khó nên được ông Ngô Văn Xứng, người làng Phước Lại (tổng Phước Điền Hạ, phủ Phước Lộc) gả con gái lớn là Ngô Thị Điểm cho. Từ đó, ông thuê nhà mở tiệm buôn vải ở chợ Cần Giuộc và 5 người con lần lượt ra đời.

Tuy đã có gia đình ở Việt Nam, nhưng ông vẫn thường xuyên gởi tiền bạc về giúp vợ con ở Trung Quốc.

Một lần bà vợ lớn người Hoa dắt con ở Trung Quốc là Trương Khịt theo Trương Oánh (em ông Trương) qua Việt Nam thăm ông. Sau đó bà trở về Trung Quốc lại dắt theo 1 người con của bà vợ Việt Nam. Còn ông Trương Khịt thì ở lại lấy vợ Việt là bà Nguyễn Thị Chi, người ở Phước Lâm, sanh 1 con là Trương Văn Khải. Sau khi có con, ông Khịt bỏ về Trung Quốc, không rõ mất năm nào.

Các con của ông Trương Điều với bà Ngô Thị Điểm:

Thứ hai : Trương Thị Thu

Thứ ba : Trương Văn Thập

Thứ tư : Trương Thị Bá, chết nhỏ.

Thứ năm : Trương Văn Điền, theo bà mẹ lớn đi Trung Quốc

không thấy trở về.

Thứ sáu : Trương Thị Sa, vợ của Nguyễn An Ninh

VỀ TÊN VÀ NĂM SANH NĂM MẤT CỦA ÔNG BÀ

Hiện nay có sai lệch giữa mộ bia và truyền miệng về năm mất

+ Đã từ lâu, các con của bà Sáu (Trương Thị Sa) vẫn đinh ninh rằng:

Thân phụ của bà Sa có tên là Trương Điều, mất năm 1899 (Kỷ Hợi) tức năm bà Sa vừa mới ra đời.

Thân mẫu là Ngô Thị Ba, mất năm bà Sa 21 tuổi (tức khoảng năm 1920 - 1921).

+ Mới đây, Nhóm Nghiên cứu và Thực hành Gia phả TP Hồ Chí Minh trong khảo sát đã ghi được ở mộ bia những chữ Hán sau:

Mộ ông ghi:

Đại Nam, Hiển khảo tính Trương tự Điền đệ nhất hàng chi mộ

Nguyên sinh Quý Hợi niên cát nhật,

Tốt tử Quý Sửu niên cát nhật

Dịch nghĩa:

Nước Đại Nam, mộ người con trưởng là ông Trương Điền

Nguyên sinh ngày tốt năm Quý Hợi (1863)

Mất ngày tốt năm Quý Sửu (1913)

Theo bà Năm Minh, mộ bia đã sai tên, năm sinh, năm mất

Mộ bà ghi:

Đại Nam, Hiển tỷ tính Ngô húy Điểm, đệ nhất hàng, ngũ thập tứ

Tuế

Lộc phủ, Phước Điền Hạ tổng, Phước Lại thôn

Tốt ư Tân Dậu niên, bát nguyệt thập tam nhật

Dịch nghĩa:

Nước Đại Nam, người con trưởng là Ngô Thị Điểm, 54 tuổi

Thôn Phước Lại, tổng Phước Điền Hạ, phủ Phước Lộc

Mất ngày 13 tháng 8 năm Tân Dậu (1921)

Hai mộ táng cách nhau khá xa nhưng được làm cùng kiểu với đá xanh, trường trụ thường thấy. Mộ bia cũng cùng kiểu theo phong cách Việt Nam, không mang sắc thái Trung Quốc. Hai người con lập mộ bia làVăn Thập và Thị ? không đọc rõ, chắc là Thị Sa vì bà Sa chịu chi phí lập mộ bia cho cha mẹ. Hai ngôi mộ này cùng mộ Trương Thị Thu và Trương Văn Thập đã được các cháu cải táng gữi tro tại chùa Giác Lâm Tân Bình.

Giải thích theo mộ bia thì:

Ông là người Trung Quốc, sanh năm Quý Hợi tức 1863, mất năm Quý Sửu tức 1913, thọ 50 tuổi. Người con út Trương Thị Sa phải ở tuổi 14 (1913 – 1899 = 14).

Bà là Ngô Thị Điểm, không ghi năm sanh nhưng ghi mất lúc 54 tuổi tức Tân Dậu 1921. Như vậy năm sanh là (1921- 54 = 1867) Đinh Mão 1867. Bà nhỏ hơn ông 4 tuổi và mất sau ông 8 năm, lúc bà Sa được 22 tuổi. Ngày mất của bà là 13 tháng 8 âm lịch.

Chữ “đệ nhất hàng” có nghĩa nói bà là con trưởng (tuy bà thứ ba nhưng người thừ hai đã chết nhỏ)

Như vậy theo sự truyền miệng từ bà Sáu Sa cho các con thì ông là Trương Điều (không phải là Trương Điền vì đã có con tên là Điền).

Các người con bà Sáu Sa hiểu theo truyền miệng, vì không ai đọc bia mộ. Do dựa vào truyền miệng, các con bà Sáu Sa vẫn tin điều mình biết là đúng và cho là bia mộ sai. Lý do sai là : người lập mộ là bà Sáu Sa, bà ra kiểu xây mộ và khắc bia, người anh trai là ông Thập nhận tiền và đứng ra trông coi xây cất. Chữ Điều thành ra chữ Điền vì có thể ông Thập viết chữ quốc ngữ chữ (u) mà người thợ khắc đọc thành chữ (n) nên Điều hóa ra Điền (?). Năm mất không rõ nguyên nhân sai, nhưng đúng như bia khắc thì bà Sa lúc cha mất đã 14 tuổi phải biết rõ cha. Ý kiến bà Sa khi lớn lên chỉ biết có mẹ, và mẹ kể lại cha mất khi mẹ mới sanh Sáu Sa, chính mẹ lo chôn cất cha xong thì bị hậu sản. Do nhà nghèo nên khi ông Điều mất, bà Điểm cũng không có tiền lập bia mộ cho ông. Khi bà Điểm sắp mất có dặn lại các con khi có tiền lập mộ bia thì khắc tên cha là Trương Điều.

Còn tên bà Điểm thì không ai biết, kể cả các con vì từ nhỏ ông ngoại cũng gọi là con Ba, anh chị em đều gọi là chị Ba, lấy thứ làm tên. Khi làm mộ bia, ông Thập hỏi ông Lương mới biết tên thật, nhưng không ai nhớ chỉ nhớ là Ba. Ngay như bà Sa tên như vậy, nhưng mọi người đều gọi là Sáu. Sau này cũng lấy luôn tên Sáu khắc trên bia mộ. Do đó bà Ba hay bà Điểm cũng là một chứ không phải lầm người khác.

Tuy họ Trương phát tích không bao lâu ở Việt Nam, nhưng đời II đã sinh ra một Trương Thị Sa suốt đời cống hiến cho sự nghiệp Cách mạng. Đời III có Trương Văn Bang, Trương Văn Khải là những cán bộ đảng viên cao cấp đã có nhiều đóng góp to lớn cho Cách mạng. Lớp con cháu sau này đều có vị trí xứng đáng trong xã hội.

Thời gian học tập ở Trung Quốc, Nguyễn An Tịnh và Nguyễn An Định có nhờ người truy tìm ông Trương Điền và gốc gác họ Trương ở Phúc Kiến nhưng không kết quả. Năm 1970 bà Nguyễn An Ninh có ghé Bắc Kinh mấy ngày nhờ Đài Phát thanh Bắc Kinh nhắn tin cũng không có kết quả.

LƯỢC PHẢ HỌ NGÔ Ở PHƯỚC LẠI

Xã Phước Lại là quê ngoại hay nói đúng hơn là quê bà ngoại. Nơi đây họ Ngô sinh cơ lập nghiệp và có mồ mả ông bà. Sau Cách mạng Tháng Tám, bà Trương Thị Sáu đã dắt con chạy tản cư về đây. Xin có đôi điều về họ Ngô.

Ông bà Cao tổ, người đầu tiên khai cơ lập nghiệp ở đây là:

I. Ngô Ngọc Chơn và Nguyễn Thị Chọn.

Mộ bia bị dân đập phá vì sát hại nghĩa quân.

Ông bà sanh các con:

Thứ hai : Ngô Ngọc Thoại

Thứ ba : Ngô Ngọc xứng

Thứ sáu : Chưa biết tên

Thứ tám : Ngô Thị Thới

Ngày nay con cháu còn đông đảo ở đây.

II. Ngô Ngọc Xứng và Nguyễn Thị Ngài.

Ông thứ ba Ngô Ngọc Xứng, mất ngày 12 tháng 5 nhuần năm Giáp Dần (1914), thọ 76 tuổi, tức ông sanh năm 1838. Bà Nguyễn Thị Ngài, mất ngày 7 tháng 8 năm Giáp Dần (1914), sau ông 4 tháng, thọ 67 tuổi, tức sinh năm 1847.

Các con của ông Xứng và bà Ngài:

Thứ hai : Vô danh, chết nhỏ.

Thứ ba : Ngô Thị Điểm (1867-1921) gả cho ông Trương Điều có 5 người con

Thứ tư : Ngô Ngọc Thạch(1870-1916) Vợ là Trần Thị Lang

Thứ năm : Ngô Thị Sổ, gả cho ông Huyện…? ở bến đò Tân Thanh, có 13 người con

Thứ sáu : Ngô Thị Long, chết lúc 21 tuổi ,chưa chồng.

Thứ bảy : Ngô Ngọc Lương (1879 – 1945). Vợ là Nguyễn Thị Thường (1880 – 1946), có 4 người con.

Thứ tám : Ngô Thị Phi, lấy chồng ở Trường Bình, có 4 người con.

Thứ chín : Ngô Thị Biết, chồng là Trần Văn Quy, người Hoa, ở Xóm Củi, có 5 người con.

III. Ông Ngô Ngọc Lương và bà Nguyễn Thị Thường, quê ở Long Thượng . có 4 người con

Thứ hai : Ngô Ngọc Đống, sanh 1898 (Mậu Tuất), mất năm 1943 (quý Mùi)

Thứ ba : Ngô Thị Ngàn

Thứ tư : Ngô Thị Muôn

Thứ năm : Ngô Ngọc Hảo ( 1902 – 1966)

IV. Ông Ngô Ngọc Đống và bà Trần Thị Thương (1896 – 1974). Sanh các con là anh em ông Ngô Kỳ Khiêm, hiện con cháu sinh sống tại xã Phước Lại nơi có mồ mả ông bà.

Ông Ngô Ngọc Hảo và bà Nguyễn Thị Trị (1907), người ở Long Đước (nay là Long Hậu), hiện còn sống. Bà Trị là chị ruột của Nguyễn Thị Một, vợ ông Trương Văn Bang.

Ông Hảo thuở nhỏ được ông Thạch (bác ruột) nuôi làm con nuôi, kêu ông Thạch bằng Tía, kêu ông bà Lương bằng chú thiếm.

clip_image002[2]

PHẢ HỆ

ĐỜI I

TRƯƠNG ĐIỀU

(1853 – 1899)

NGÔ THỊ ĐIỂM

(1867 – 1921)

Giỗ ngày 13 tháng 8 âm lịch

clip_image046

Ông Tổ phụ Trương Điều, sanh năm Quý Sửu (1853), mất năm Kỷ Hợi (1899), không biết ngày giỗ. Khi mất vợ là bà Điểm lo chôn cất. Mộ trên một gò đất cạnh đường làng, cách khu mộ dòng họ Ngô một thửa ruộng. Vì khác họ, là con rể nên không được nằm trong khu mộ.

Bà vợ lớn người Hoa không rõ tên (ở bên Tàu)

Bà vợ Việt là Ngô Thị Điểm, sanh năm Đinh Mão (1867), mất ngày 13 tháng 8 âm lịch năm Tân Dậu (1921). Mộ bà ở ấp Phước Thới A, xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, do con gái út là Sáu Sa chôn cất, cách xa mộ ông mấy thửa ruộng. Sau được hỏa táng hài cốt gữi tro tại chùa Giác Lâm, Tân Bình.

Các con của ông Trương Điều:

- Với bà người Hoa:

Ông Trương Khịt, không biết năm sanh, năm mất.

- Với bà người Việt: Ngô Thị Điểm:

Thứ hai : Trương Thị Thu

Thứ ba : Trương Văn Thập

Thứ tư : Trương Thị Bá, chết nhỏ

Thứ năm : Trương Văn Điền, đi qua Trung Quốc từ nhỏ, do bà vợ lớn người Hoa xin

Thứ sáu : Trương Thị Sa

clip_image048

MỘ ÔNG TRƯƠNG ĐIỂU Ở XÃ PHƯỚC LẠI
ĐỜI II

CÁC CON ÔNG TRƯƠNG ĐIỀU

TRƯƠNG KHỊT

NGUYỄN THỊ CHI

Ông Trương Khịt là con ông Trương Điều với bà vợ lớn ở Trung Quốc, không rõ năm sanh, năm mất. Một lần ông theo mẹ từ Trung Quốc sang Việt Nam thăm cha là ông Trương Điều, rồi ở lại Việt Nam lấy vợ là bà Nguyễn Thị Chi, người ở làng Phước Lâm, sanh một con là Trương Văn Khải. Sau khi có con, ông Khịt bỏ về Trung Quốc rồi ở luôn bên ấy, không rõ mất năm nào.

Bà Chi sau đó có chồng khác và bà mất lúc 82 tuổi, mộ táng ở Phước Lâm

TRƯƠNG THỊ THU

Giỗ ngày 18 tháng 01 âm lịch

PHẠM VĂN MÃNG

clip_image050

Mộ Bà Trương Thị Thu Ở Phước Lại

Bà Trương Thị Thu là con ông Trương Điều và bà Ngô Thị Điểm, Giỗ ngày 18 tháng 01 âm lịch, mộ ở Phước Lại, sau cải táng tro cốt bà được gữi tại chùa Giác Lâm, Tân Bình

Chồng là ông Phạm Văn Mãng, quê ở Hưng Long, mộ ở nghĩa địa Phú Thọ Hòa nhưng khi giải tỏa bị thất lạc.

Các con bà Thu:

Phạm Văn Mùa

Phạm Văn Xưa, chết nhỏ

TRƯƠNG VĂN THẬP

(1884 – 1929)

Giỗ ngày 25 tháng 01 âm lịch

VƯƠNG THỊ ĐIỂN

(1883 – 1945)

Giỗ ngày 03 tháng 5 âm lịch

clip_image052

Mộ Ông Trương Văn Thập

Trương Văn Thập là con ông Trương Điều và bà Ngô Thị Điểm sanh năm Giáp Thân (1884), mất ở quê nhà ngày 06 tháng 3 năm 1929 (nhằm ngày 25 tháng giêng năm Kỷ Tỵ), hưởng dương 46 tuổi (theo mộ bia ở Phước Lại do cháu nội lập).

Vợ ông là Vương Thị Điển sanh năm 1883 mất năm 1945. Sau khi ông Thập mất, bà bỏ quê dắt các con lên Sài Gòn sống với bà Sa, rồi về sống với cha mẹ ruột. Sau năm 1940, khi con gái út lấy chồng, làm ăn khá, bà cùng 2 con gái thứ tám và thứ chín lên Sài Gòn mở tiệm may Mỹ Hiệp trên đường Amiral Rose (nay là đường Trương Định) đối diện với chùa Bà Đen. Năm 1945, tiệm may bị máy bay đồng minh bỏ bom Nhật Bản rơi trúng chết cả nhà gồm bà Điển , Thị Tám và vị hôn phu, Thị Mười cùng chồng và 2 con nhỏ, bốn thợ may đều chết. Thi hài an táng ở nghĩa địa Chí Hòa, nay tất cả đều thất lạc.

Các con ông Thập và bà Điển:

Thứ hai : Trương Văn Rạng, sanh năm 1908, chết lúc 4 tuổi.

Thứ ba : Trương Văn Bang

Thứ tư ;. Trương Thị Be

Thứ năm : Trương Văn Dĩ, sanh năm 1914, chết lúc 14 tuổi

Thứ sáu : chết nhỏ

Thứ bảy : chết nhỏ.

Thứ tám : Trương Thị Tám, sanh năm 1920, chết năm 1945 do bị thả bom, chưa chồng, cùng ngày với em Mười và mẹ.

Thứ chín : Trương Thị Mười ( vì bà cô Biết thứ chín thường gọi là bà Chín nên tên gọi tránh sang Mười), sanh năm 1922, chết lúc 12 giờ trưa ngày 12.6.1945 nhằm ngày mùng 3 tháng 5 ÂL cùng chồng và 2 con do bị máy bay đồng minh bỏ bom trúng.

Hiện nay tro cốt ông Thập được gữi tại chùa Giác Lâm, Tân Bình.

TRƯƠNG THỊ BÁ

(Chết lúc nhỏ)

TRƯƠNG VĂN ĐIỀN

Trương Văn Điền là con ông Trương Điều và bà Ngô Thị Điểm, lúc nhỏ ông theo bà mẹ lớn người Hoa đi Trung Quốc, nhiều lần trốn về Việt Nam, nhưng mẹ lớn khóc lóc năn nĩ nên ở lại và biệt tin luôn.

TRƯƠNG THỊ SA

(1899 - 1983)

NGUYỄN AN NINH

(1900 - 1943)

Trương Thị Sa là con gái út của ông Trương Điều và bà Ngô Thị Điểm , sanh năm 1899, mất năm 1983. Tên thường gọi là Trương Thị Sáu, chồng là Nguyễn An Ninh (1)

Các con:

Nguyễn An Định

Nguyễn Thị Bình

Nguyễn An Tịnh

Nguyễn Thị Minh

Nguyễn An Vĩnh

--------------------

(1) xin xem chi tiết ở phần phả hệ họ Nguyễn, đời III và đời IV đã có bên phả hệ họ Nguyễn.

CHI ÔNG

TRƯƠNG KHỊT


ĐỜI III

CON ÔNG TRƯƠNG KHỊT VÀ BÀ NGUYỄN THỊ CHI

TRƯƠNG VĂN KHẢI

(1911 - 1949)

Giỗ ngày 16 tháng 10 âm lịch

ĐẶNG THỊ MAI

( 1912 – 1992)

Giỗ ngày 7 tháng 5 âm lịch

Ông Trương Văn Khải là con ông Trương Khịt và bà Nguyễn Thị Chi. Ông Khải sanh năm 1911, hy sinh năm 1949, giỗ ngày 16 tháng 10 âm lịch. Thuở nhỏ cha bỏ về Tàu, mẹ giận đi lấy chồng khác, ông Khải được người cô ruột là Trương Thị Sa nuôi nấng và được ông Nguyễn An Ninh dẫn dắt làm cách mạng. Ông Khải kết hôn với bà Đặng Thị Mai, sanh năm 1912, mất năm 1992, giỗ ngày 7 tháng 5 âm lịch.

Ông bà có nhà cửa ở làng Tân Kim, ngoại vi Thị trấn Cần Giuộc. Ông tham gia hoạt động Cách mạng và vào Đảng từ năm 1930. Ông tham gia cướp chính quyền ở Cần Giuộc năm 1945, thoát ly xây dựng đơn vị bộ đội kháng chiến ở vùng Cần Giuộc, Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn. Ông được bầu làm Bí thư Quân ủy lâm thời Cần Giuộc, Tỉnh ủy viên Chợ Lớn. Ông hy sinh trong một cuộc chống càn lúc đang giữ chức Tỉnh đội phó Dân quân tỉnh Chợ Lớn. Sau được phong quân hàm Trung tá, mộ cải táng về Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Long An, được công nhận Liệt sĩ theo Quyết định số 1042/TTg, bằng số 1 LC 723b do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng ký ngày 11- 9–1978.

Được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng II theo Quyết định số 539/KT-CT, số huy chương số 10 do Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký ngày 20-10-1998.

Bà Đặng Thị Mai sau khi chồng hy sinh vẫn ở vậy nuôi con. Tuy nhà cửa ở trong vòng ấp chiến lược bà vẫn nuôi dấu cán bộ,cất giữ tài liệu cách mạng. Có lần bị kẻ phản bội chỉ điểm, bà bị địch tra khảo tàn nhẫn nhưng vẫn giữ vững cơ sở, giấu được tài liệu. Khi mất mộ bà táng ở đồng mả làng Tân Kim.

Các con ông Khải và bà Mai:

Thứ hai : Đặng Thị Biết

Thứ ba : Trương Công Hoàng

Thứ tư : Trương Thị Hồng Ảnh, chết nhỏ.

Thứ năm : Trương Công Đoàn

Thứ sáu : Trương Thị Hồng Hoa

Thứ bảy : Trương Công Long

Thứ tám : Đặng Thị Chín

ĐỜI IV

CON ÔNG TRƯƠNG VĂN KHẢI VÀ BÀ ĐẶNG THỊ MAI

- Đặng Thị Biết là con gái thứ hai của ông Trương Văn Khải và bà Đặng Thị Mai, sanh năm Giáp Tuất (1934). Vì cha đi kháng chiến chống Pháp nên bà khai theo họ mẹ. Chồng là Trần Ai Đông. Bà Biết mất năm……. Có 5 người con.

- Trương Công Hoàng là con trai thứ ba của ông Trương Văn Khải và bà Đặng Thị Mai, sanh năm 1938, mất năm 1999. Vợ là Trương Thị Hoa. Có một người con gái.

- Trương Công Đoàn là con trai thứ năm của ông Trương Văn Khải và bà Đặng Thị Mai, sanh năm 1941. Vợ là Trang Lệ Thủy, ở Thị trấn Cần Giuộc, làm giáo viên.

Ông Năm Đoàn, lúc nhỏ đi học ở Cần Giuộc, rồi lên Sài Gòn học Trung học, đỗ bằng Tú tài. Ông bị động viên nên trốn lính. Sau 1975 ông công tác ở nhiều ban ngành ở huyện Cần Giuộc. Có nhiều thành tích cống hiến, sau đó nghỉ hưu. Có 4 người con.

- Trương Thị Hồng Hoa là con gái thứ sáu của ông Trương Văn Khải và bà Đặng Thị Mai, có chồng là Nguyễn Văn Đãi ở Trường Bình.

- Trương Công Long là con trai thứ bảy của ông Trương Văn Khải và bà Đặng Thị Mai, sanh năm 1945, mất 1976. Vợ là Nguyễn Thị Thúy Hồng, Phan Thị Bông . Có 3 người con

- Đặng Thị Chín là con gái thứ tám của ông Trương Văn Khải và bà Đặng Thị Mai, sanh năm 1949. Họ Đặng là do khai theo họ mẹ, vì ông Khải lúc đó đi kháng chiến. Chồng là Nguyễn Văn Yến, nguyên là sĩ quan chế độ cũ đã xuất cảnh đi Mỹ. Có 2 người con

CHI ÔNG

TRƯƠNG VĂN THẬP

ĐỜI III

CON ÔNG TRƯƠNG VĂN THẬP VÀ BÀ VƯƠNG THỊ ĐIỂN

TRƯƠNG VĂN BANG

(1911 – 1981)

Giỗ ngày mùng 6 tháng chạp

NGUYỄN THỊ MỘT

(1919 – 2013)

Giỗ ngày mùng 8 tháng 3 âm lịch

clip_image054Ông Trương Văn Bang, con thứ ba của ông Trương Văn Thập, sanh năm Tân Hợi ( 1911), mất năm 1981

Thuở nhỏ ông tuy ít được học hành nhưng thông minh, tháo vát, được cô là Trương Thị Sa dạy mua bán từ nhỏ, sau theo cô lên Cầu Ông Lãnh Sài Gòn cho tới khi cô về với ông Ninh ở Trung Chánh. Từ đó, ông Bang được ông Ninh tuyên truyền lý tưởng yêu nước. Hàng đêm ông Trương Văn Bang và ông Trương Văn khải thường đi mời những người cốt cán của tổ chức Thanh Niên Cao Vọng đến dự lớp huấn luyện

Di ảnh Ông Trương Văn Bang

của Nguyễn An Ninh. Trong số cốt cán của Nguyễn An Ninh có ông Hồ Văn Long vào An Nam Cộng Sản Đảng từ cuối năm 1929 và là Xứ ủy viên đầu tiên của tổ chức Cộng Sản này.

Từ năm 1924 ( lúc 13 tuổi) Trương Văn Bang và Trương Văn Khải được ông bà Nguyễn An Ninh gữi gắm cho ông Hồ Văn Long là một thầy giáo yêu nước và có kiến thức sâu rộng, là người cốt cán nổi trội của tổ chức Thanh Niên Cao Vọng. Năm 1929 khi Hồ Văn Long là Xứ ủy viên của An Nam Cộng sản Đảng cũng là lúc ông Bang và ông Khải đã đủ tuổi để thoát ly hoạt động. Sau thời gian thử thách, đầu năm 1930 Hồ Văn Long lúc này là Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn của Đảng Cộng sản Đông Dương, đã kết nạp ông Bang và ông Khải vào Đảng. Ngay năm đó, cả hai được bầu vào Huyện ủy Cần Giuộc, ông Bang là Phó Bí thư. Năm 1931, ông Bang được bổ sung vào Tỉnh ủy Chợ Lớn, trực tiếp làm Bí thư Cần Giuộc. Năm 1932 khi Hồ Văn Long được bầu làm Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, thì ông được bầu là Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn. Ông đã có công xây dựng phong trào gần như tan rã của tỉnh Chợ Lớn, đặc biệt vùng Cần Giuộc – Cần Đước sau khi Hồ Văn Long bị bắt. Tháng 5 năm 1933 ông được bầu làm Bí thư Xứ ủy, cuối năm thì bị bắt đến năm 1936

khi chánh phủ Mặt trận Bình dân bên Pháp ân xá ông ra tù, phụ trách Xứ ủy thay Trần Văn Giàu. Năm 1937 – 1938 ông sống ở Hóc Môn vừa trị bệnh vừa hoạt động cách mạng, Bí thư Xứ ủy lúc này là Võ Văn Tần. Cuối năm 1939, lúc về liên tỉnh Miền Đông công tác, ông thành hôn với bà Nguyễn Thị Một là một cán bộ đang hoạt động ở Sài Gòn. Năm 1941 bị tên phản bội là Năm thợ bạc khai báo, ông bị bắt lần thứ hai, năm 1943 bị đày đi Bà Rá.

Nhân lúc có sự tranh giành giữa Pháp và Nhật, một số tù Bà Rá đã vượt ngục trốn về, trong đó có ông. Ông về Cần Giuộc chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám, phụ trách bộ phận vũ trang và là Bí thư Quận ủy, lãnh đạo cướp chính quyền tại quận thành công.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, giặc Pháp từ Sài Gòn đánh ra. Ông Bang được giao phụ trách mặt trận số 4 (phía Nam Sài Gòn) để bao vây địch. Lực lượng này gọi là Bộ đội Cần Giuộc, thường gọi là Bộ đội Ba Bang. Lực lượng Bình Xuyên tạo phản làm tay trong cho Pháp, lại được một số cán bộ hữu khuynh ủng hộ giao vũ khí cho Bình Xuyên, do đó bọn Bình Xuyên đã bao vây bộ đội của Ba Bang để tước vũ khí, chúng nói lấy vũ khí để tăng cường lực lượng chống Pháp, kỳ thật chúng rút lui để bọn Pháp chiếm Cần Giuộc – Bộ đội Ba Bang ra sức chống cự nhưng đạn dược bị lấy hết, buộc lòng phải rút về Rừng Sác. Năm 1948, Nguyễn Bình chỉnh đốn lại lực lượng vũ trang phiên hiệu thành Tiểu đoàn 922, Trung đoàn 308 Nguyễn An Ninh, ông là Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn phó hoạt động trên địa bàn Cần Giuộc, Cần Đước, Rừng Sác, nhiều lần đụng chạm với Bộ đội Bình Xuyên. Sau đó ông được phân công đi học chính trị khóa Trường Chinh I ở Nam Bộ. Năm 1951, Trung ương Cục tổ chức lại 3 quân khu, ông về công tác ở Phân Liên khu miền Đông. Đến năm 1954 đình chiến, ông phụ trách đoàn thương binh Nam Bộ được vận chuyển bằng máy bay tập kết ra Bắc, đem theo 2 con là Bình Tâm và Minh Tâm.

Ông công tác ở Bộ Tổng tham mưu với cấp hàm Trung tá. Do ông bị suyển nặng nên ông được bà Bội Lan tình nguyện sống và chăm sóc cho ông suốt hai mươi năm, nhưng không có con.

Bà Nguyễn Thị Một, vợ ông ở lại miền Nam. Năm 1956 bà bị bắt, bị giam qua nhiều nhà lao và đày ra Côn Đảo. Đến năm 1973 trao trả ở Lộc Ninh rồi được đưa ra Bắc an dưỡng. Tổ chức bố trí cho ông Bang đi chửa bịnh ở Trung Quốc và thuyết phục bà Bội Lan để hai vợ chồng đoàn tụ.

Năm 1976, gia đình ông trở về thành phố Hồ Chí Minh. Ông Bang nghỉ hưu với cấp bậc Thượng tá Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Ông mất vào ngày 31 tháng 12 năm 1981 (nhằm ngày mùng 6 tháng chạp năm Tân Dậu) tại nhà ở đường Nguyễn Trọng Tuyển. Mộ ông ở Nghĩa trang Lạc Cảnh của Thành phố.

Bà Nguyễn Thị Một do những năm tháng bị tù đày, sức khỏe kém. Từ ngày ông Bang mất bà bị kiệt sức, thường xuyên phải nằm viện. Hơn hai mươi năm cuối đời bà đã nằm liệt giường tại bệnh viện Thống nhất. Bà mất ngày 17 tháng 4 năm 2013 nhằm ngày mùng 8 tháng 3 năm Quý Tỵ.

Cả hai ông bà đều được nhà nước tặng Huân chương Hồ Chí Minh do có nhiều cống hiến cho dân cho nước và được an táng tại nghĩa trang Lạc Cảnh ở Thủ Đức.

Các con của ông Bang và bà Một:

- Trương Bình Tâm,

- Trương Thanh Tâm, chết nhỏ.

- Trương Minh Tâm

- Trương Thu Tâm (Trương Ngọc Thủy)

- Trương Hòa Bình

TRƯƠNG THỊ BE

(1912 – 2001)

Giỗ ngày 20 tháng 7 âm lịch

NGHIÊM KHẮC CƠ

( 1911 – 1951 )

Trương Thị Be, con gái thứ tư của ông Trương Văn Thập, sanh năm 1912, vào Đảng năm 1934, tỉnh ủy viên tỉnh Trà Vinh. Năm 1954 với bí danh Tư Trầu ở lại miền Nam hoạt động và bị tù đày. Sau năm 1975 bà sống ở Phú Nhuận với con và mất năm 2001, giỗ ngày 20 tháng 7 âm lịch. Mộ ở nghĩa trang Lạc Cảnh Thủ Đức TP. Hồ Chí Minh.

Chồng là Nghiêm khắc Cơ, sanh năm 1911, mất năm 1951 (bí danh Năm Kỷ), gốc người Bắc, vào Đảng năm 1938. Thời kháng chiến chống Pháp làm công binh xưởng ở Trà Vinh, được Trung ương điều ra Bắc công tác và mất ở miền Bắc ( ở Bắc ông có vợ khác).

Các con của bà Be và ông Cơ

- Nghiêm Quốc Lệ là giáo viên - sanh năm 1940, vợ là Vương Hoài Chi cũng là giáo viên – có hai con

- Nghiêm Quốc Hồng, sanh năm 1944 là Giám đốc Xí nghiệp Hóa màu, sau này sáp nhập vào Công ty cao su Thống Nhất thuộc Sở Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, nghỉ hưu năm 2004. Vợ là Lê Thị Yến Thanh, Giám đốc Công ty sơn Bạch Tuyết thuộc Sở Công nghiệp, hiện cư trú tại 43L Hồ Văn Huê, Phú Nhuận. Có hai con.

ĐỜI IV

CON ÔNG TRƯƠNG VĂN BANG VÀ BÀ NGUYỄN THỊ MỘT

1- Ông Trương Bình Tâm là con trai thứ hai của ông Trương Văn Bang và bà Nguyễn Thị Một, sanh năm 1941 nguyên Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, có hai đời vợ, vợ trước tên Lê Hồng Cẩm có 2 con, vợ sau tên Dương Thị Dung có 1 con.

2- Trương Thanh Tâm là con thứ ba của ông Trương Văn Bang và bà Nguyễn Thị Một, chết nhỏ

3- Ông Trương Minh Tâm là con trai thứ tư của ông Trương Văn Bang và bà Nguyễn Thị Một, sanh năm 1945 mất năm 2002, làm ở Công ty đầu tư xây dựng Tân thuận, Quận 7, vợ tên Võ Thị Thiện, là giám đốc Công ty thương mại dịch vụ Quận 7, có 2 con. Ông Minh Tâm mất năm 2002, giỗ ngày 09 tháng 9 âm lịch.

4- Bà Trương Thu Tâm (Trương Ngọc Thủy) là con gái thứ năm của ông Trương Văn Bang và bà Nguyễn Thị Một, sanh năm 1952 nguyên là Giám đốc Sở Du lịch, rồi Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin thành phố Hồ Chí Minh, chồng là Trần Tiến Định, hưu trí , có 2 con.

5- Ông Trương Hòa Bình là con trai út của ông Trương Văn Bang và bà Nguyễn Thị Một, sanh năm 1954 hiện là Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Đại biểu Quốc hội, vợ là Nguyễn Minh Phương trước làm ở Xí nghiệp dược 24 ở Ngô Thời Nhiệm, Quận 3. Có 2 con.

clip_image055

clip_image057

NGOẠI PHẢ

NGUYỄN AN KHƯƠNG

NGUYỄN AN NINH

TRƯƠNG THỊ SÁU

NGUYỄN AN KHƯƠNG

clip_image059

Di ảnh Ông Nguyễn An Khương

Ông Nguyễn An Khương sinh năm 1860 tại thôn Phước Quảng, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn ( ngày nay thuộc tỉnh Long An ).

Cha là Nguyễn An Nghi là người có tâm và yêu nước nhưng bị thất bại. Tổ tiên gốc ở Hưng Yên, họ Đoàn, do chống lại chúa Trịnh nên phải trốn chúa Trịnh vào định cư ở Bình Định và đổi thành họ Nguyễn. Ông Nghi lưu tán vào Nam, lấy vợ là bà Dương Thị Tiền, quê ở Phước Quảng và sinh cơ lập nghiệp tại đây.

Từ thuở nhỏ, nhờ sống trong gia đình có học và gia giáo lại giỏi nghề làm thuốc nên ông Khương sớm tinh thông Y học, Hán văn và chữ Quốc ngữ. Ông mở trường dạy học cho trẻ em tại thị xã Tân An. Kiến thức và đạo đức của ông khiến cha mẹ học trò kính trọng, trong đó có ông Hội đồng Trương Dương Lợi và được ông gả con gái thứ bảy là Trương Thị Ngự. Vợ chồng ông Khương sinh được 4 con là: Nguyễn An Thái ( 1890 ), Nguyễn An Thường ( 1894 ), Nguyễn Thị Năng ( 1897 ) và Nguyễn An Ninh (1900 ). Nhưng 3 người con đầu mất sớm chỉ còn lại Nguyễn An Ninh.

Sự nghiệp giáo dục

Nhờ tài quán xuyến của vợ, ngoài việc dạy học, ông Khương còn chú tâm dịch truyện Tàu, những tác phẩm cổ điển có giá trị tư tưởng, văn hóa như: Thủy Hử, Tam Quốc diễn nghĩa, Vạn Huê Lầu, Ngũ Hổ bình Tây…, biên soạn sách giáo khoa như Mông học thê giai nhầm giáo dục tinh thần yêu nước và hiếu nghĩa cho con trẻ bằng các truyện ngắn như: Thằng Vân, Thằng Vàng, v.v… Những sách này đều được xuất bản tại Sài Gòn vào những năm đầu thế kỷ XX

Đối với người con duy nhất là Nguyễn An Ninh, ông quyết tâm dạy dỗ và đào tạo thành người trí thức yêu nước, thương dân. Ông cho con đi học trường Pháp nhưng sợ con chỉ biết chữ Tây mà quên chữ Thánh hiền nên ông dạy thêm cho con chữ Nho. Mỗi lần dịch truyện Tàu, ông đều đọc cho Ninh viết. Đoạn nào Ninh thích thú thì ông bắt học thuộc lòng những chữ Hán đó. Những tuồng tích về gương hiếu nghĩa, trừ gian diệt bạo hoặc những lời hay trong bộ Tứ Thư… dần dần thấm sâu vào tâm hồn và trí nhớ của Ninh. Nhờ vậy, khi Ninh bước vào trường văn, trận bút trong cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân, hiếm có ngòi bút nào sắc sảo vừa giỏi tiếng Pháp lại tinh thông Hán học như ông. Và cũng nhờ vào sự giáo huấn của cha ngay từ thuở ấu thơ, Nguyễn An Ninh đã có lòng yêu nước sâu sắc, kiên trung, phân biệt trung nịnh, chánh tà rõ ràng.

Vai trò Chiêu Nam Lầu

Vốn là người yêu nước và mang hoài bảo phụng sự đất nước, năm Nguyễn An Thái đến tuổi đi học, ông Khương bàn với vợ lên Sài Gòn mở khách sạn để có cơ hội tiếp xúc với nhiều người đồng tâm, đồng chí. Và khách sạn Chiêu Nam Lầu được dựng từ cuối thế kỷ XIX, tọa lạc trên

đường Kinh Lấp ( sau đổi thành Charner và ngày nay là đường Nguyễn Huệ ), nơi trung tâm thương mại của Sài Gòn và cũng là nơi giao lưu thuận lợi cả trên đường bộ lẫn đường sông.

Để Chiêu Nam Lầu trở thành nơi hội ngộ của những người yêu nước, thời gian đầu thật khó khăn, vất vả. Bà Khương vừa là người trực tiếp điều hành việc quản lý khách sạn; đồng thời mở rộng kinh doanh nhà hàng. Nhờ tài nấu nướng của bà , Chiêu Nam Lầu được sự mến mộ trong giới điền chủ, thương gia ở Lục tỉnh và vùng Sài Gòn - Chợ Lớn nên sớm phát đạt, nổi tiếng suốt thời gian dài và tồn tại đến năm 1926. Những người yêu nước, những nhà hoạt động cách mạng ẩn dật, những trí thức tiến bộ đương thời lui tới Chiêu Nam Lầu nhiều hơn và kết bạn với ông Khương. Trong số này có Trần Chánh Chiếu đã mời ông cộng tác với hai tờ báo của mình là Nông cổ Mín Đàm và Lục Tỉnh Tân Văn.

Khi cụ Phan Bội Châu bí mật vào Sài Gòn, Chiêu Nam Lầu là nơi cụ tá túc. Kính phục cụ, Nguyễn An Khương đã tổ chức cho cụ gặp gỡ những nhà điền chủ yêu nước nồi tiếng ở Nam Kỳ như Trần Chánh Chiếu đại điền chủ ở Rạch Giá, Nguyễn Thần Hiến điền chủ ở Cần Thơ. Và bộ ba Nguyễn An Khương, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Thần Hiến trở thành cơ sở tài chánh và lãnh đạo phong trào Đông Du của cụ Phan ở Nam kỳ từ năm 1904.

Tại Chiêu Nam Lầu đã hình thành đường dây bí mật đưa những người yêu nước xuất dương để sau này trở về phụng sự đất nước. Phần lớn đi qua Nhật theo học về kỹ thuật quân sự, số ít sang Tàu mua vũ khí. Ông Hoàng Cường Để cũng có một thời tá túc tại khách sạn, và từ đây ông được tổ chức qua Hồng Kông, rồi sang Nhật gặp Phan Bội Châu đang hoạt động ở hải ngoại. Phan Châu Trinh cũng có lúc ở tại đây với người con trai lớn trước khi sang Pháp, và kết thân với Nguyễn An Khương. Nguyễn Sinh Huy ( Sắc ), Nguyễn Tất Thành cũng có ở đây. Riêng ông Huy còn được ông Khương giúp tiền bạc trong lúc mưu sinh. Ngoài ra những ai muốn tìm đường Đông du mà gia đình xa xôi, gặp khó khăn về tiền bạc, Chiêu Nam Lầu đều lo lắng giúp đỡ mọi việc.

Cùng với Chiêu Nam Lầu, ông Khương hoạt động tích cực về báo chí. Ông làm quản lý báo Nông cổ Mín Đàm, đồng thời là cây bút cho tờ báo này và báo Lục Tỉnh Tân Văn. Những bài viết của ông đều có nội dung nhằm hô hào mở mang buôn bán, chống những phong tục hủ bại, hô hào dân Việt đoàn kết, tương thân tương ái. Những ý tưởng của ông đăng tải trên báo được công luận mến mộ, nhất là giới sĩ phu yêu nước khắp ba miền.

Khi phong trào Đông Du thất bại năm 1908, thực dân Pháp bắt và cầm tù Trần Chánh Chiếu. Đối với ông Khương vì ông bị bại chúng chi giam rồi thả về, chúng cấm không được làm báo và không được sinh sống tại Sài Gòn. Lúc này, sức khỏe ông suy yếu nhiều, đi đứng khó

khăn nên ông thu xếp khách sạn, giao lại cho chị gái là bà Nguyễn Thị Xuyên trước khi về sống tại Trung Chánh-Hóc Môn. Bà Xuyên một phụ nữ yêu nước, có học vấn, tinh thông Hán văn và Quốc ngữ, tiếp tục công việc của em trai. Nhưng hoạt động ngày càng khó khăn vì làn sóng du học không còn ồ ạt như trước và luôn bị mật thám theo dõi. Trong những năm 1925 – 1926, phong trào quần chúng nổi lên sôi động. Nhiều cuộc biểu tình rầm rộ đòi ân xá Phan Bội Châu, trả tự do cho Nguyễn An Ninh, để tang Phan Châu Trinh…, những lúc đó, khách sạn Chiêu Nam Lầu rất đông người lui tới gặp gỡ. Viện cớ nơi đây chứa chấp những người chống đối nhà nước, Chính quyền thực dân ra lệnh đóng cửa khách sạn. Bà Xuyên phải bán hết tài sản, về Hóc Môn lập vườn sống với em và cháu.

Những ngày cuối cùng:

Bà Khương vì quá lo lắng cho sự nghiệp của chồng và buồn rầu vì cái chết đột ngột của người con trai lớn ( Nguyễn An Thái khi đang theo học tại trường Collège Mỹ Tho, bị tiêu chảy nhưng nhà trường thiếu chăm sóc nên bệnh mà mất), bà Ngự bệnh và tạ thế năm 1911, an táng tại làng Long Thượng, Cần Giuộc quê nhà.

Ông Khương trong những năm cuối cùng của cuộc đời do bị tai biến mạch máu não, ông bị liệt nửa người. Nhờ tự bốc thuốc chữa bệnh nên ông không bị bại liệt nhưng hai chân yếu, khó đi lại. Ông nằm nhà, tiếp tục dịch sách và chuẩn bị cơ ngơi cho Nguyễn An Ninh sau này. Để có người chăm sóc, ông tục huyền với bà Mai Thị Nữ quê ở Xuân Thới Thượng.

Ông mất ngày 02 tháng 02 năm 1931 (nhằm ngày rằm tháng chạp năm Canh Ngọ), mộ phần tại đất nhà ở Trung Chánh trên phần đất cháu cố bà Nữ hiện cư ngụ tại số 150/2 đường Nguyễn Ảnh Thủ.

clip_image061

NGUYỄN AN NINH

Con người và cuộc sống

clip_image063

Di ảnh Ông Nguyễn An Ninh

Buổi thiếu thời đầy hứa hẹn:

Nguyễn An Ninh sinh ngày 15 tháng 9 năm 1900 tại xã Long Thượng, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn ( nay là tỉnh Long An ) trong

một gia đình Nho giáo. Thân phụ là Nguyễn An khương, giỏi chữ Hán và Quốc ngữ, làm nghề thầy thuốc, dạy học, dịch sách. Thân mẫu là Trương Thị Ngự, con một gia đình giàu có.

Lúc nhỏ, ông sống tại quê ngoại ( xã Long Thượng ), đến năm 10 tuổi theo cha lên ở hẳn tại khách sạn Chiêu Nam Lầu, nơi thân phụ ông vừa kinh doanh, vừa làm nơi quy tụ, giúp đở những nhà yêu nước đương thời đến ẩn trú hoặc tìm đường xuất dương. Được tiếp xúc với những người này và chịu ảnh hưởng của cha, ông đã được hun đúc tinh thần yêu nước ngay từ thời thơ ấu.

Năm 1910, ông bắt đầu đi học trường dòng Taberd và sau đó theo học chương trình Brevet Elémentaire tại trường Chasseloup Laubat ( hiện nay là trường Lê Quý Đôn ) chủ yếu dành cho con em người Pháp. Nơi đây, ông học giỏi nổi tiếng, được trường cấp học bổng. Ngoài việc theo Tây học, ông còn được cụ Khương dạy Hán Văn và chữ Quốc ngữ qua các truyện Tàu mà cụ dịch thuật.

Năm 1916, nhờ đậu tốt nghiệp hạng ưu nên ông được tuyển thẳng ra Hà Nội theo học Cao đẳng Y dược, được miễn chuẩn bằng Tú tài. Ông lại bỏ Y dược chuyển sang học Luật và Cai trị, nghĩ rằng học ngành này mới thấu hiểu bản chất của chính quyền thực dân để sau này đấu tranh công khai bằng pháp luật. Nhưng không hài lòng với chế độ giáo dục nhồi sọ, ông bỏ học và tìm đường đi Pháp.

Năm 1918, tại Pháp năm đầu Nguyễn An Ninh phải chuẩn bị hồ sơ vào đại học. Ông nhanh chóng lấy bằng Tú tài trong vòng 3 tháng rồi thi vào khoa Luật trường Đại học Sorbonne (cứ 3 tháng ông đăng ký thi chương trình của một năm) nên ông chỉ học trong một năm đã hoàn thành chương trình bốn năm và lấy bằng Cử nhân Luật, gây ngạc nhiên và thán phục trong giới trí thức ở Pháp về trí thông minh lỗi lạc đặc biệt hiếm thấy.

Trong thời gian sống tại Paris, ông thích lui tới Montparnasse “Tổng hành dinh” của nhiều văn sĩ nổi tiếng và nhiều trào lưu nghệ thuật tiền phong đã ra đời tại đây, hoặc lui tới khu Saint Germain des Prés, nơi tụ tập, gặp gỡ của nhiều triết gia và các nhà văn hiện sinh. Ông cũng thường có mặt tại thư viện, đọc những sách mà lịch sử Pháp gọi là “ Triết học ánh sáng” của các triết gia như: Voltaire, J.J.Rousseau, Montesquieu, Diderot . Ngoài ra ông còn thích nghiên cứu về chủ nghĩa Gandhi, về Phật giáo và đặc biệt về triết học Mác – Lênin . Ông cũng đi tham quan học tập và tiếp cận các danh nhân ở Đức, Ý, Thụy sĩ, Áo, Hà Lan, Bỉ. Nhờ vậy, trí thông minh lỗi lạc của ông có được một bề dày kiến thức uyên bác về mọi mặt: Hán Học, Tây học, Luật học, Triết học, Văn hóa và Khoa học.Trong thế hệ đương thời của ông và cả trước đó, sau này, ít có người sánh kịp.

Con đường dấn thân:

Ông không có ý định dừng bước ở bằng Cử nhân mà còn muốn đi xa hơn nữa: đoạt bằng Tiến sĩ. Nhưng ý muốn ấy đã phải nhường bước cho một lý tưởng cao đẹp hơn mà ông đã sớm ôm ấp theo truyền thống gia đình ngay từ buổi thiếu niên tại Chiêu Nam Lầu: đấu tranh cho đất nước.

Năm 1920, trên đất Pháp ông bắt đầu tham gia hoạt động chính trị khi vừa tròn 20 tuổi. Ông thường làm phiên dịch và đưa cụ Phan Châu Trinh đến Bộ Thuộc địa gặp Bộ trưởng Albert Sarraut đòi ân xá chính trị phạm Việt Nam, mở thêm trường học, cho thương gia Việt Nam liên hệ thẳng với nước ngoài. Ông thường giúp Nguyễn Ái Quốc luyện tiếng Pháp, cùng đến thư viện để đọc và các câu lạc bộ để nghe.

Năm 1921, ông gia nhập Hội Liên hiệp Thuộc địa, tham gia tích cực cơ quan ngôn luận của Hội là báo Le Paria cùng với Nguyễn Ái Quốc, tham dự và phát biểu tại những cuộc diễn thuyết do Hội tổ chức và được quần chúng bắt đầu chú ý .

Ngoài việc biên tập cho báo Le Paria, ông còn viết cho các báo tiến bộ như Le Libertaire, có chân trong nhóm sáng lập tạp chí Europe, một tờ báo quy tụ những cây bút nổi tiếng của Pháp và vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Nhóm Ngũ Long gồm (Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh ) được Việt kiều ở Pháp mến mộ, khâm phục, khiến Bộ Thuộc địa Pháp phải yêu cầu Bộ Nội vụ cùng phối hợp hành động để đối phó những nhà cách mạng này.

Năm 1920, khi còn đang ở Pháp, lúc ông vừa đậu Cử Nhân, chưa có ý định về nước thì được cha và cô gọi về lấy vợ. Ông trở về nước kết hôn với một thiếu nữ con một gia đình giàu có ở Sóc Trăng, quốc tịch Pháp. Mặc dù được chế độ thực dân sẵn sàng ưu đãi, dành cho địa vị cao nhất trong chính quyền, có cuộc sống thượng lưu trong xã hội, ông vẫn một mực từ chối, thái độ cương quyết này đưa đến việc ly hôn với người vợ đầu tiên do gia đình lựa chọn. Cuộc hôn nhân kết thúc chỉ trong vòng ba tháng, ông trở sang Pháp nói là học tiếp lấy bằng Tiến sĩ, nhưng thật sự ông đi một số nước học hỏi thêm để rồi kể từ đó, cuộc dấn thân vì đất nước bắt đầu.

Từ năm 1920 đến 1922, ông đã cùng kỹ sư hóa học Nguyễn Thế Truyền,một nhà trí thức uyên bác yêu nước, trở thành hai người bạn thân thiết của Nguyễn Ái Quốc. Họ cùng chung suy nghĩ, cùng chia sẻ khó khăn trong cuộc sống cùng học tập, cùng làm báo, diễn thuyết, cùng bàn bạc con đường đấu tranh làm sao cho tốt nhất, phù hợp với hoàn cảnh của một đất nước nô lệ, lạc hậu nhưng giàu khí chất anh hùng, có truyền

thống yêu nước chống ngoại xâm. Họ đã thề nguyền cùng nhau suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Tháng 10 năm 1922 Nguyễn An Ninh thu xếp về nước thăm dò phong trào quần chúng bằng cuộc diễn thuyết đầu tiên đêm 25-01-1923 với đề tài “Nền Văn hóa Việt Nam” được quần chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Ông vội trở sang Pháp tháng 02 năm 1923 để bộ ba cùng thống nhất hành động.

Tháng 6 năm 1923 Nguyễn Ái Quốc sang Nga để học cách tổ chức và lãnh đạo cách mạng.

Tháng 8 năm 1923 Nguyễn An Ninh trở về xây dựng phong trào trong nước chờ Nguyễn Ái Quốc trở về.

Nguyễn Thế Truyền ở lại tiếp tục công việc và phát triển phong trào tại Pháp, tranh thủ sự giúp đở của Đảng Cộng sản Pháp và đồng bào Pháp.

Về nước , Nguyễn An Ninh lại diễn thuyết lần thứ hai vào đêm 15 tháng 10 năm 1923 với đề tài “Lý tưởng thanh niên An Nam”. Trong hai cuộc thuyết trình này, những lời lẽ của ông là những tiếng chuông khơi động sự “ thức tỉnh đồng bào” về mặt văn hóa lúc ấy còn bị chôn vùi trong những ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến Trung Hoa lạc hậu, và chế độ ngu dân của thực dân Pháp. Ông khẳng định :“ Dân tộc nào để cho một nền văn hóa ngoại bang ngự trị thì không thể có độc lập thực sự. Văn hóa là tâm hồn của dân tộc”.

Ông đả kích “ vai trò khai hóa” của người Pháp tại Việt Nam, cho đó là một trò bịp bợm, một chiêu bài nhằm che giấu chính sách bóc lột thực dân, kêu gọi thanh niên đừng ỷ lại vào đó và “ phải dấn thân vào cuộc sống đấu tranh…” Và ông đã kết luận “ Hãy tôn sùng những ai đã dùng tài năng hay thiên phú của mình mà tự nâng vị trí của dân tộc ta trên thế giới và những ai đã đóng góp vào việc cải thiện điều kiện sống cho dân tộc chúng ta”.

Tiếng vang qua hai bài diễn thuyết của Nguyễn An Ninh tuy mới mẻ cũng đã tác động mạnh trong dư luận thanh niên và trí thức Sài Gòn và đã làm đau đầu bọn thống trị. Thống đốc Nam Kỳ lúc đó là Cognacq phải gọi ông lên Dinh để mong bịt miệng. Trước tiên , hắn giở trò mua chuộc, hứa hẹn sẽ bổ nhiệm ông vào một chức vụ cao, nhưng sau đó thấy không thể lung lạc được ý chí sắt đá của người thanh niên mới 23 tuổi này, hắn ra lệnh cấm ông diễn thuyết hay tụ họp bất cứ nơi đâu.

Báo La Cloche Fêlée và sứ mệnh lịch sử :

Không thể tiếp tục đấu tranh bằng lời nói, ông chuyển sang đấu tranh bằng ngòi bút. Ông đã lợi dụng Đạo luật ngày 19 tháng 7 năm 1881

cho phép báo chí viết bằng tiếng Pháp khỏi phải xin phép trước khi báo phát hành. Đạo luật này cho phép dùng « gậy ông đập lưng ông » nên ông cho ra đời báo La Cloche Fêlée ( Chuông rè ) bằng Pháp văn với người quản lý Pháp lai tên Eugène Dejean de la Bâtie.

Ông phải lo chạy tiền ra báo, cụ Nguyễn An Khương đã bán ruộng cho con có tiền và ngày 10 tháng 12 năm 1923, La Cloche Fêlée ra mắt số đầu tiên. Báo tự xưng là cơ quan ngôn luận, tuyên truyền chuẩn bị cho tương lai với tinh thần : Tự do, Bình đẳng, Bác ái nhằm xây dựng Việt Nam thành một nước Pháp thứ hai tại Châu Á.

Nhưng lập trường, quan điểm ấy dù bề ngoài rất ôn hòa và đầy thiện chí, thực chất là lưỡi gươm bén chọc thẳng vào những chổ yếu nhứt của chế độ thực dân, vốn là một chế độ hoàn toàn đi ngược lại những nguyên tắc cơ bản của cuộc cách mạng Pháp 1789. Do đó vì không cấm đoán được, Cognacq và bộ máy cầm quyền Pháp chủ trương đánh phá  La Cloche Fêlée bằng mọi cách. Bất cứ ai cầm tờ báo trên tay cũng bị mật thám theo dõi, bị đuổi học , đuổi việc. Chủ nhà in, thợ sắp chữ liên tục bị hăm dọa. Báo phải đổi nhà in, chủ báo (Nguyễn An Ninh) vừa là ký giả, vừa phụ sấp chữ với thợ, sửa bản vỗ, làm long tong . Khi báo in xong, thì tự mình ôm từng chồng báo đi rao bán khắp phố phường, vì không một đại lý nào dám phát hành La Cloche Fêlée khi có sự răn đe của mật thám.

Làm báo gian khổ cùng cực như thế nhưng Nguyễn An Ninh vẫn không nản chí, vẫn công kích chế độ thuộc địa và ông đã xác định trên báo : «  lưỡi gươm đe dọa vẫn làm chúng tôi dửng dưng. Chúng tôi đã hy sinh tất cả trong quá khứ, chúng tôi sẳn sàn hy sinh tất cả trong tương lai… »

Đến số 19 ra ngày 14 tháng 7 năm 1924 thì báo đành tạm ngưng vì lý do sức khỏe của ông và thể theo lời khuyên của Bâtie, ông cần nghỉ ngơi một thời gian vì cuộc chiến đấu còn dài.

Tuy báo chỉ có mặt trên diễn đàn ngôn luận thời gian ngắn và số lượng phát hành có bị hạn chế ( viết bằng Pháp văn và người đọc bị đe dọa ) nhưng La Cloche Fêlée đã tạo được một vị trí hàng đầu trong lịch sử báo chí Việt Nam, trong thời kỳ đấu tranh xương máu giành độc lập – tự do. Dưới áp lực của bộ máy kềm kẹp thực dân, La Cloche Fêlée đã thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là gióng lên tiếng chuông thức tỉnh đồng bào và lột trần bản chất đàn áp, bóc lột của chế độ thuộc địa. Có thể nói, lần đầu tiên sau hơn nữa thế kỷ đô hộ Việt Nam, thành trì kiên cố của thực dân Pháp bị một cơ quan ngôn luận bản xứ ngang nhiên nả đạn tấn công, khiến chúng lúng túng, không thể đối phó bằng cách quang minh chính đại mà phải áp dụng những thủ đoạn đê hèn, thấp kém dù chúng thường huênh hoang tự xưng là « người ơn », « người đi khai hóa ».

Riêng đối với Nguyễn An Ninh thì La Cloche Fêlée đáng được xem là một thành tựu quan trọng trong bước đầu của sự nghiệp vì đại nghĩa. Có thể nói tờ báo là hiện thân rõ nét  « Con người Trí tuệ và Tâm

tình » của ông trên giấy trắng mực đen. Do đó, ông được đồng bào ở Sài Gòn – Chợ lớn, ở khắp Nam Kỳ và trên cả nước bắt đầu tin yêu, ngưỡng mộ và xem là thần tượng.

Và trong số người đông đảo ấy có cô Trương Thị Sáu, một cô gái đẹp ở chợ Cầu Ông Lãnh, vốn biết rõ lòng yêu nước chân chính của ông qua La Cloche Fêlée nên đã nhận lời cùng ông đi trọn cuộc đời, dấn thân cho đất nước.

Sự lựa chọn dứt khoát :

Không thể tiếp tục làm báo, cuối năm 1924, sau khi làm lễ thành hôn với Trương Thị Sáu, ông quyết định trở sang Pháp để mở một chiến dịch đòi các quyền tự do – dân chủ cho Việt Nam. Đó cũng là lúc cụ Phan Châu Trinh nhờ Nguyễn An Ninh sang Pháp đón ông về, nên tháng 1 năm 1925 ông đi Pháp. Đến Paris, ông đi diễn thuyết tại nhiều nơi. Đặc biệt trong cuộc nói chuyện tại hội quán Sociétés Savantes do Hội Liên hiệp Pháp – Đông Dương tổ chức ngày 22 tháng 02 năm1925, ông phát biểu thẳng thừng rằng « Cách mạng sẽ nổ ra ở Đông Dương trong vài năm sắp tới nếu thực dân Pháp không cải thiện chế độ thối nát », đồng thời « sẽ có Đảng Cộng Sản giúp nhân dân Việt Nam tiến hành cách mạng ».

Cũng trong thời gian này, vào tháng 4 năm 1925, ông cho công bố quyển sách «  La France en Indochine »(Nước Pháp ở Đông Dương) tại Pháp vạch trần sự xâm lược của thực dân Pháp, phân tích những nguyên nhân đưa đến sự bất ổn tại Đông Dương. Cùng năm đó quyển « Le Procès de la colonisation Francaise »(Bản án thực dân Pháp) của Nguyễn Ái Quốc, được xem là hai bản cáo trạng hùng hồn nhứt, đánh thẳng vào cái gọi là « sứ mệnh khai hóa » của Pháp ở Đông Dương.

Ngày 26 tháng 6 năm 1925, ông cùng cụ Phan Châu Trinh về đến Sài Gòn. Hai người chủ trương cho tái bản La Cloche Fêlée. Và lần này, báo do ông Trường đứng tên Chủ nhiệm, vì có quốc tịch Pháp.

Từ đây, Nguyễn An Ninh tỏ ra năng nổ, quyết liệt hơn theo một tư tưởng của Gandhi là «  đứng trước một tình thế phải chọn lựa giữa sự khiếp sợ và bạo lực, tôi khuyên phải dùng bạo lực hơn là thấy Ấn Độ bị xiềng xích trong bạo lực của kẻ thống trị ». Nếu trước kia, trên mặt báo, ông mới chỉ trích Thống đốc Nam Kỳ thì lần này, ông đánh thẳng vào Toàn quyền Varenne, khi hắn vừa nhậm chức. Đồng thời, còn cho đăng lại những bài của báo L’ Humanité (báo Nhân Đạo thuộc Đảng Cộng sản Pháp ), viết những bài về nước Nga Xô Viết được ông ca tụng là «quốc gia đầu tiên sinh ra từ học thuyết Cộng Sản để hạ sát con rắn bảy đầu tư

bản chủ nghĩa » Táo bạo hơn, ông còn cho đăng nguyên văn bản  Tuyên ngôn Cộng sản  của Mác- Anghen để giúp đọc giả hiểu rõ về chủ nghĩa này.

Thế là sau những năm tháng đầu tiên dấn thân vào cuộc đấu tranh, Nguyễn An Ninh đã dẫn dắt từng bước đấu tranh cho đọc giả từ : Cải lương ôn hòa đến cách mạng bạo lực. Sự lựa chọn dứt khoát ấy đã thúc giục ông làm một chuyện hết sức dũng cảm mà không ai có thể làm trong lúc đó : Công khai đốt lên ánh đuốc Mác- Lênin để cổ vũ một con đường giải phóng mới cho dân tộc, bất chấp họng súng của kẻ thù.

Ông đã làm chuyện hi hữu ấy tức là tuyên chiến với nhà nước thực dân. Và tất nhiên, chúng tìm mọi cách hãm hại ông.

Bắt đầu cuộc đời tù tội

Cuối năm 1925, nhân vụ Thống đốc Nam Kỳ ra lệnh trục xuất nhà báo Trương Cao Động, bắt phải trở về Trung Kỳ, dư luận báo chí nổi lên phản đối và nhiều cuộc hội họp được tổ chức. Nguyễn An Ninh được mời diễn thuyết tại vườn xoài của bà Đốc phủ Nguyễn Tấn Tài là dì ruột của Nguyễn An Ninh tại Phú Nhuận. Và ông bị Thống đốc Cognacq ra lệnh bắt giam trưa ngày 24 tháng 3 năm 1926.

Tin ông bị bắt gây chấn động dư luận và khoảng 50.000 người kéo đến bến Cảng với danh nghĩa đón Bùi Quang Chiêu về nước, nhưng thật sự đòi trả tự do ngay cho Nguyễn An Ninh khiến bọn mật thám phải nổ súng giải tán.

Sau đó, La Cloche Fêlée đăng thư của hơn 1000 đồng bào các giới phản đối việc bắt ông. Học sinh các trường Nữ học đường, trung học Mỹ Tho, Cần Thơ đồng loạt bãi khóa. Đảng Thanh niên của Trần Huy Liệu phát động cuộc đình công ngày 05 tháng 5 năm 1926. Cả Nam Kỳ sôi sục bày tỏ thái độ quyết liệt. Ở Pháp, trên báo Việt Nam Hồn do Nguyễn Thế Truyền chủ bút, đăng nhiều bài đòi thả ngay Nguyễn An Ninh. Và chính nhà văn Pháp Romain Rolland, người đoạt giải Nobel 1915, cũng lên tiếng chống lại sự bắt bớ này.

Thống đốc Cognacq và bộ máy cầm quyền âm mưu kết ông vào tội « gây nội loạn » để trừng phạt nặng nề, nhưng qua hai phiên xét xử, tòa án vẫn không tìm được chứng cứ buộc tội nên phải xử 18 tháng tù ở thay vì 2 năm như dự kiến.

Ở trong tù ông vẫn không chịu nằm yên. Nhân ngày giỗ đầu cụ Phan Châu Trinh, ông dặn bà Ninh - nhân chuyến bà vào thăm - đi vận động đồng bào viếng mộ cụ thật đông để « tập họ quen biểu dương lực lượng, sẳn sàng cho cuộc đấu tranh lớn sau này ». Bà Ninh lĩnh ý, tích cực thực hiện và trong ngày giỗ cụ Phan, đã có hàng trăm ngàn người hưởng ứng, trong đó có hàng ngàn phụ nữ.

Tuy bị xử 18 tháng tù ở, nhưng trước dư luận phản đối bản án, đặc biệt của nhà báo Pháp nổi tiếng Léon Werth, giáo sư triết học Félicien

Challage, giáo sư kinh tế Charles Gide, v.v…, chính quyền Pháp phải trả

tự do cho ông sớm hơn. Ngày 7 tháng 01 năm 1927, ông rời Khám Lớn

sau hơn 9 tháng bị giam cầm.

Tấm lòng đối với Đảng Cộng Sản

Ông về sống tại Trung Chánh ( Hóc Môn – nay là Quận 12), cạo đầu, trên bàn thờ để bộ mõ, chuông để che mắt mật thám việc chuẩn bị hoạt động mới : Xây dựng tổ chức Thanh niên Cao vọng tuyển chọn người yêu nước để có sẳn lực lượng chờ Nguyễn Ái Quốc trở về, ( mật thám Pháp gọi là Hội kín Nguyễn An Ninh ). Như vậy, từ lĩnh vực văn hóa tư tưởng, ông chuyển sang địa hạt tổ chức, hành động cách mạng, như ông thường nói « Tuyên truyền rồi mà không tổ chức quần chúng lại thì khác nào đốt pháo thăng thiên »

Suốt hai năm 1927 – 1928, ông bí mật đi nhiều nơi từ Miền Đông xuống Miền Tây thường di chuyển bằng xe đạp với người bạn thân là Phan Văn Hùm. Tính đến cuối năm 1928, tổ chức có hơn 4000 thanh niên đã được ông tuyển chọn có mặt khắp Nam Kỳ, thu hút mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt ở nông thôn, có rất nhiều hương chức tham gia. Thanh niên Cao vọng tổ chức học văn hóa, học lịch sử nước nhà, học chính trị giác ngộ về đấu tranh giai cấp và bí mật võ trang bằng súng lấy được của lính Pháp.

Bọn mật thám ráo riết bám sát và tìm cách bắt ông. Nhân việc ấu đả với Cai Nên tại Bến Lức, chúng bắt và đưa ông ra tòa và xử hai tội : đánh nhân viên công lực và lập Hội kín với bản án 3 năm tù, 1000 quan tiền vạ và mất quyền công dân 3 năm. Đây là lần thứ hai ông vào Khám Lớn.

Đó là cái giá khá đắt mà ông phải trả. Nhưng bù lại ông đã làm được điều ông tâm nguyện tha thiết như đã từng tâm sự với bà Ninh là ; « Tôi cố gắng xây dựng cơ sở quần chúng để bao giờ Nguyễn Ái Quốcvề, tôi sẽ giao lại ». Và ông đã thực hiện điều tâm nguyện ấy cho những người học trò của Nguyễn Ái Quốc mà không cần chờ đợi ngày về của ông ấy. Ngay trong tù, ông đã dặn dò bà Ninh giới thiệu người trực tiếp cho Châu Văn Liêm thành lập An Nam Cộng Sản Đảng.

Vào cuối năm 1929, vì lúc bấy giờ tổ chức Thanh Niên cách mạng ở Nam Kỳ đã bị bắt gần hết, chật Khám Lớn Sài Gòn từ cuối năm 1928, trong vụ án giết người ở đường Barbier. Người lãnh đạo cao nhất của tổ chức Thanh Niên cách mạng là Tôn Đức Thắng và Ban chấp hành Kỳ bộ đều vào tù, cơ sở bên dưới cũng bị bắt rất nhiều. Khi Châu Văn Liêm và Phạm Văn Đồng từ Quảng Châu về để thành lập tổ chức Cộng sản ở Nam Kỳ thì Phạm Văn Đồng bị bắt ngay tại ga Sài Gòn và bị xử chung trong vụ án đường Barbier. Vì vậy mà Phạm Văn Đồng có dịp ở tù chung Khám Lớn với Nguyễn An Ninh. Ông Ninh biết đây là người của tổ chức của Nguyễn Ái Quốc, nên qua bà Ninh, Châu Văn Liêm đã có một lực lượng nồng cốt của Thanh Niên Cao Vọng giúp đở mở Đại hội thành lập An Nam Cộng sản Đảng tại Sài Gòn. Lớp đầu tiên gồm Võ Thành Mong, Hồ Văn Long, Nguyễn Văn Nhâm, Nguyễn Văn Tiếp, Võ Văn Ngân, Võ

Văn Tần, Phan Văn Đối, Nguyễn Thị Thiên, Lưu Văn Châu vào Đảng cuối năm 1929

Sau khi mãn tù, chính ông trực tiếp đi tìm gặp Nguyễn Văn Trân, một đảng viên Cộng Sản vốn quen thân từ lúc ở Pháp, cùng ông này đi khắp các tỉnh Nam Kỳ suốt 3 năm liền từ năm 1932 đến năm 1935 bằng xe đạp bán dầu cù là để giới thiệu những Thanh niên Cao vọng ưu tú cho ông Trân báo cáo với Xứ ủy để chỉ thị cho các tỉnh liên hệ, và chọn lựa kết nạp.

Khi ba Đảng Cộng Sản được thống nhất. Ở Nam Kỳ, số đông đảng viên đầu tiên vốn có gốc từ Thanh niên Cao vọng như đồng chí Hồ Văn Long, Võ Văn Tần, Võ Văn Ngân, Lưu Văn Châu, Nguyễn Văn Tiếp…trở thành những chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, kiên trung, từng giữ các chức vụ cao trong đảng thời ấy. Thanh niên Cao vọng là sự đóng góp lớn của Nguyễn An Ninh cho Đảng Cộng sản lúc thoái trào vươn lên nhanh chóng, sau thời gian bị khủng bố nặng nề để kịp thời đáp ứng yêu cầu của tình thế mới khi Mặt trận Bình dân tại Pháp lên cầm quyền. Có người vẫn chưa hiểu tại sao ông xây dựng một tổ chức yêu nước lớn mạnh nhất lúc bấy giờ, rồi lại tích cực bàn giao hết lực lượng ấy cho Đảng Cộng sản. Sự kiện này biểu hiện rõ nét tấm lòng và niềm tin của Nguyễn An Ninh đối với Đảng Cộng Sản. Đó là tinh thần phục vụ vô điều kiện và niềm tin tuyệt đối dành cho Đảng, mặc dù lúc đó Đảng chỉ là một tổ chức mới xây dựng, chưa có bề thế của một đảng lãnh đạo, tổ chức chưa thật thống nhất lại sai lầm ấu trỉ rất nguy hại qua khẩu hiệu đánh đố : «Trí, phú, địa, hào đào tận gốc, bóc tận rễ » lúc ấy. Nhưng Nguyễn An Ninh đã nhìn thấy sức mạnh tiềm năng của Đảng bằng đôi mắt tinh đời đặc biệt, đã thấu hiểu bản chất của Đảng bằng trí tuệ hết sức minh mẫn, và đoán biết được tương lai của Đảng bằng nhãn quan chính trị sâu sắc, nhạy bén. Do đó ông đã làm một chuyện mà ngoài ông, chưa một ai có thể làm được lúc bấy giờ.

Và hơn thế nữa, ông lại tự đặt mình dưới sự lãnh đạo của Đảng để hoạt động trong tư cách «đảng viên ngoài đảng » mặc dù lúc đó ông đã tạo cho mình một ánh hào quang chói lọi, được mọi người tin yêu, ngưỡng mộ như một lãnh tụ, thần tượng. Tuy không phải là một đảng viên cho đến cuối đời, nhưng ông đã có « Đảng tính rất cao, cao hơn cả đảng viên…,có quan hệ mật thiết với anh Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Cừ. Có những Nghị quyết anh Ninh chấp hành rất nghiêm chỉnh. Trái

lại, có những sáng kiến của bản thân anh được Đảng ta coi như của mình, được toàn đảng ta chấp hành ». ( lời của Hà Huy Giáp )

Chủ xướng phong trào Đông Dương Đại Hội

Năm 1932, tình hình chuyển biến thuận lợi. Cuối tháng 10 năm ấy, sau khi viết và cho in quyển sách «  Tôn giáo », ông cùng Nguyễn Văn Tạo, một đảng viên Cộng sản, làm báo Trung Lập.

Gặp dịp chính quyền thực dân tổ chức bầu cử Hội đồng Thành phố (tháng 5 năm 1933) , Ông và ông Tạo đưa ra Sổ Lao Động để tranh cử, ứng cử viên là những người Cộng sản đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động công khai giữa Sài Gòn, giữa lúc chính quyền Pháp vẫn còn tiếp tục đàn áp phong trào cách mạng, mở phiên tòa xử vụ án lớn nhất gồm 121 người cộng sản nổi danh như ; Hà Huy Giáp, Ngô Gia Tự, Phạm Hùng…- .Để bài vở cổ động tuyển cử không bị kiểm duyệt, ông cùng ông Tạo cho ra báo Pháp ngữ « La Lutte » .Kết quả cuộc bỏ phiếu ngày 23 tháng 4 năm 1933, hai đảng viên Cộng sản trong Sổ Lao Động là Nguyễn Văn Tạo và Trần Văn Thạch đắc cử, đạt phiếu cao hơn cả đảng Lập Hiến thân Pháp. Viên Toàn quyền Pasquier như bị một tát tai vào mặt, ngang ngược hủy bỏ kết quả bầu cử, ra lệnh thu hồi giấy phép báo Trung Lập , báo La lutte cũng tự đính bản sau khi xong bầu cử.

Tháng 8 năm 1933 phái đoàn dự hội nghị bảo vệ hòa bình chống chiến tranh ở Thượng Hải do ông Paul Vaillant Couturier dẫn đầu sang Sài Gòn để nắm tình hình phong trào cộng sản bị đàn áp. Nguyễn An Ninh là bạn thân của Couturier nên nhờ đó mà biết Nguyễn Ái Quốc còn sống đã trở sang Moscou, Nguyễn An Ninh cung cấp tài liệu về vụ xử hơn 120 đảng viên cộng sản cho Couturier để trở về Pháp đấu tranh.

Ngày 19 tháng 02 năm 1934, ông lại gặp đoàn Cứu tế Đỏ của Quốc tế Cộng Sản do Gabriel Péri, đảng viên Đảng Cộng Sản, nghị sĩ Quốc Hội Pháp dẫn đầu đến Việt Nam để điều tra và can thiệp những vụ bắt bớ, giam cầm của chính quyền thuộc địa. Ông đưa đoàn đi khắp nơi để nắm rõ tình hình. Ông đã lập danh sách tù chính trị hiện còn bị giam giữ để phái đoàn trở về Pháp đấu tranh trước Quốc hội Pháp đòi thả chính trị phạm. Nên khi chính phủ Mặt Trận Bình dân lên cầm quyền năm 1935-1936 nhiều đợt chính trị phạm được thả.

Sau đó, nhóm đệ tam và đệ tứ cho tục bản báo La Lutte và lần này với một lực lượng biên tập hùng mạnh gồm : Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn cùng với Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, Lê Văn Thử… (nhóm đệ tứ và đệ tam liên minh được do ông dàn xếp với uy tín cá nhân rất lớn của mình).

Đầu năm 1935, nhóm La Lutte ủng hộ các ứng cử viên : Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Thạch, Dương Bạch Mai, Tạ Thu Thâu đánh bại phe Lập Hiến. Và một lần nữa, chính quyền thực dân lồng lộn, ra lệnh hủy bỏ kết quả bầu cử.

Giữa năm 1935, Đảng Cộng sản Pháp liên minh với Đảng Xã Hội và Đảng Xã Hội cấp tiến thành lập Mặt trận Bình Dân. Mặt trận Bình Dân thắng cử trong Tổng tuyển cử bầu Quốc Hội Pháp và đứng ra lập chính phủ. Đây là cơ hội ngàn năm có một để Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Tuyền nhờ Đảng cộng sản giúp đỡ, khi Nguyễn An Ninh đã chuẩn bị sẳn sàng để tìm cách sang Pháp tìm cách đưa Nguyễn Ái Quốc

về Sài Gòn. Nhưng kế hoạch này bị thất bại vì Đảng cộng sản Pháp từ chối tham gia lập chánh phủ.

Không thực hiện được ước mơ đưa lãnh tụ về, đây cũng là dịp tốt để phát động quần chúng đấu tranh nên ông chủ xướng thành lập « Đông Dương Đại Hội » và chủ trương này được Đảng tán thành, được quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Ông viết một loạt bài liên tiếp trên báo La Lutte vừa vận động, cổ vũ phong trào, vừa chỉ đạo đường lối, hướng đi thích hợp. Tòa soạn báo trở thành « Tổng Hành Dinh » của cuộc chiến mới, tập hợp đông đủ mọi tầng lớp quần chúng tham gia vào hàng ngũ, kể cả đại diện tư sản, địa chủ.

Phong trào Đông Dương Đại Hội nhanh chóng phát triển, cả Nam Kỳ bùng lên trong làn sóng đòi hỏi dân chủ, tranh đấu cho dân sinh mạnh mẽ chưa từng thấy. Trong một thời gian ngắn, tại Sài Gòn – Chợ Lớn và khắp Nam Kỳ đã có trên 600 Ủy ban hành động, có triển vọng lan rộng ra Trung, Bắc và hai nước Miên, Lào.

Quá lo sợ trước sức mạnh của phong trào, chính quyền Pháp thẳng tay đàn áp, bắt giam Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo, Tạ Thu Thâu, khủng bố và giải tán các Ủy ban hành động tại khắp mọi nơi. Để phản đối sự bắt bớ trái phép, ba ông tuyệt thực. Việc này gây chấn động dư luận trong nước và ngay tại Pháp, tạo sức chống đối mạnh mẽ. Thấy tình hình có nguy cơ bùng nổ nếu sinh mạng ba ông bị lâm nguy sau 11 ngày nhịn ăn, nhịn uống, Thống đốc Nam Kỳ Pagès phải ra lệnh phóng thích. Sau đó, do bất đồng chính kiến với nhóm Đệ tứ, ông Ninh rời hẳn nhóm La Lutte, trở về Trung Mỹ Tây viết quyển : « Phê bình Phật Giáo ».

Đông Dương Đại Hội tuy có tuổi thọ ngắn ngủi, nhưng đã trở thành một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc, một hiện tượng đậm nét về tính khí bộc khởi đặc biệt của người dân Việt ở phương Nam. Và Nguyễn An Ninh là người có công đầu trong việc tạo nên sự kiện lịch sử ấy. Đó là một sự thật không ai có thể phủ nhận được.

Những năm tháng cuối cùng.

Với quyển :  « Phê bình Phật Giáo », ông trở lại với sứ mệnh « thức tỉnh » đồng bào về văn hóa. Ông chống thủ đoạn của thực dân dùng tôn giáo ru ngủ quần chúng. Để đả phá những điều sai trái của Phật giáo, ông đã vận dụng triết học duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Và « Phê bình Phật giáo » được đánh giá có chiều sâu tư tưởng

hơn nhiều các luận văn khác cùng đề tài của Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn) và Hồ Nam (Trần Văn Giàu) vốn là hai nhà lý luận mác xít nổi danh thời bấy giờ. Nhưng ông không thể ngồi yên để viết sách. Do yêu cầu của Đảng muốn ra báo L’avant – Garde bằng Pháp ngữ do Hà Huy Tập, Tổng Bí thư Đảng lúc ấy trực tiếp chỉ đạo, nhưng Đảng không có

tiền. Ông cùng Nguyễn Văn Nguyễn đi Trà Vinh vận động tài chánh cho

báo. Tại Càng Long, Đảng bộ cộng sản có tổ chức cuộc biểu dương lực lượng của hàng ngàn đồng bào tại đây nhân ngày lễ 1 tháng 5, do ông có

mặt tại Càng Long vào thời điểm đó nên chính quyền thực dân liền ra lệnh truy nã rồi bắt được ông tại nhà Hội đồng Võ Công Tồn ở Gò Đen. Và tòa án Trà Vinh ngang nhiên tuyên án ông 5 năm tù và 10 năm biệt xứ. Sau đó, xử lại còn 4 năm vì ông chống án sang Pháp nên cuối cùng chúng phải giảm án còn 2 năm tù kèm theo án biệt xứ.

Đây là lần thứ 4 ông bị ngồi tù Khám Lớn và đến ngày 18-2-1939, ông được trả tự do nhưng không được sống ở Sài Gòn, mà phải chuyển xuống ở Mỹ Tho. Hoàn cảnh gia đình ông vốn đã sa sút lại càng khốn đốn hơn.

Theo quyết định của Xứ ủy Nam Kỳ, mời ông ra ứng cử Hội đồng Quản Hạt, đứng tên chung với Nguyễn Văn Tạo và Nguyễn Phan Long, dù ông không muốn. Ông lợi dụng việc này để viết một loạt bài đăng trên tờ báo công khai của Đảng lúc đó là Dân Chúng, đề cập đến những vấn đề thời sự nóng bỏng như : «Lời hứa cho Đông Dương tự trị của Albert Sarraut », «  Đòi hòa bình, cơm áo, tự do », « Lập một quốc gia dân chủ », « Mở ngục cho chính trị phạm »…

Bị chính quyền tìm mọi cách phá bỉnh, hạn chế sự vận động, Sổ Dân chúng của Nguyễn Văn Tạo bị thua Sổ Tranh dấu của Tạ Thu Thâu mặc dù được số thăm cao hơn tại vùng nông thôn các tỉnh Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho.

Sau cuộc bầu cử, ông vẫn ở Mỹ Tho và mật thám theo dõi ngặt hơn trước. Sáng ngày 04 tháng 10 năm 1939, chúng đến nhà, bắt ông giải về Sài Gòn. Lần này tuy không có bằng cớ gì, chúng vẫn buộc tội ông : Làm rối trị an bằng hoạt động bí mật, xúi giục nông dân chống chính phủ. Ngày 27 tháng 7 năm 1940, chúng đưa ông ra xử kín với bản án 5 năm tù, 10 năm biệt xứ rồi đày ông ra Côn Đảo.

Ông bị giam cầm, hành hạ bằng cách biệt giam cách ly với mọi tù nhân, ốm đau không được chăm sóc, ngày 14 tháng 8 năm 1943 thì vĩnh viễn ra đi sau thời gian dài bịnh nặng không được chữa trị. Ông được anh em tù nhân mai táng tại nghĩa trang Hàng Dương, và ngôi mộ được bạn tù bảo vệ tồn tại cho đến ngày giải phóng cùng với mộ Võ Thị Sáu.

Gần 40 năm sau, tháng 8 năm 1980, ông được truy nhận bằng Tổ Quốc Ghi Công và danh hiệu Liệt sĩ của Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Đôi lời tổng kết về con người và sự nghiệp Nguyễn An Ninh :

Ông Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá ; « Nguyễn An Ninh là nhà yêu nước vĩ đại ».

Ông Phạm Văn Đồng, nguyên Thủ tướng chính phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã xác định : « Nguyễn An Ninh có tầm vóc một nhà lãnh đạo một cuộc cách mạng ».

Cuộc đời và con người Nguyễn An Ninh đã chứng minh cho những lời đánh giá cao đẹp ấy, và đồng thời cho lòng ngưỡng mộ, niềm tôn kính mà đồng bào cả nước dành cho ông từ thế hệ trước cho đến ngày nay và cả mai sau.

Nghiên cứu về con người và cuộc sống của ông, tất cả mọi người đều có thể dễ dàng nhất trí với nhau rằng : Nguyễn An Ninh sinh ra ở đời là để sống một cuộc sống vượt lên cao mức bình thường, nếu không muốn dùng hai chữ phi thường do những đặc trưng về Con người ít ai có được.

Trước hết, ông có một lòng yêu nước trung kiên hiếm có, bởi lẽ lòng yêu nước ấy luôn bị đặt trong sự thử thách đầy quyến rũ của địa vị thượng lưu, của cuộc sống giàu sang, êm ấm mà chế độ thuộc địa Pháp và Phát xít Nhật luôn cầu cạnh và mang đến cho ông ; đồng thời cùng với sự thử thách của chế độ lao tù đầy khắc nghiệt. Cuối cùng chúng đã quật ngã cuộc sống thể xác của ông nhưng không thể tạo được bất cứ tỳ vết nào trong tấm lòng cao cả của ông đối với đất nước.

Thứ đến, ông có một trí tuệ thông minh lỗi lạc, gần như xuất chúng. Lúc nhỏ, ông đã chứng minh trong trường học, khi trưởng thành ông chứng minh liên tục trong trường đời, trong hơn hai mươi năm hoạt động cách mạng. Giữa hoàn cảnh đất nước còn tăm tối, ông đã sớm nhìn thấy chủ nghĩa Mác – Lênin , thấy ánh sáng của Cách mạng Tháng 10 Nga, thấy xu thế mới của bước tiến lịch sử nên đã xác định được con đường yêu nước của mình ngay từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Trong việc đối mặt với chính quyền thuộc địa, đặc biệt trên mặt trận báo chí công khai, trí tuệ ông luôn sinh động. Ngòi bút của ông lúc nào cũng hừng hực khí thế chiến đấu, anh dũng, ngoan cường, đanh thép với một kiến thức uyên bác khiến bọn thống trị chỉ có một cách đối phó duy nhất là làm càn, làm bướng, đàn áp thô bạo, phi pháp luật, phi văn hóa.

Thứ ba, ông có một tính cách luôn năng nổ, sôi động, nhạy bén, sáng tạo và quyết liệt trong mọi hoàn cành, mọi cơ hội. Điển hình là việc làm báo La Cloche Fêlée, báo La Lutte và việc chủ xướng, chỉ đạo trực tiếp phong trào Đông Dương Đại hội. Có thể nói rằng trong mấy mươi năm liên tiếp, từ khi dấn thân vào con đường đại nghĩa cho đến ngày tạ thế, ông không có thời gian ngơi nghỉ và lo lắng cho cuộc sống bản thân, cho gia đình mà đã dành trọn tất cả tinh lực để đánh địch, đánh liên tiếp, đánh tới tấp, đánh không khoang nhượng.

Và cuối cùng, ông có một nhân cách cao đẹp hiếm có trong cuộc sống thường tình cũng như trong cuộc sống cách mạng khiến bất cứ ai cũng mến thương, kính trọng, tôn sùng, sẳn sàng đi chung với ông, đi

theo ông. Như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Mai Văn Ngọc luôn xem ông là người bạn đường đáng tin tưởng. Như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, trước sau vẫn xem ông là thần tượng dù có khác biệt về chính kiến như Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Hà Huy Giáp, Trần Văn Giàu, Nguyễn Thị Lựu luôn xem ông như một người anh, người đồng chí thân thiết . Kể cả bọn mật thám, cai tù chưa một lần đánh đập, tra tấn ông. Ngay cả tù thường phạm, giám thị nhà tù Côn đảo đã lén lút chăm sóc, bảo vệ ngôi mộ của ông để không bị vùi dập dưới bãi cát Hàng Dương. Và đặc biệt hơn cả ở nhân cách ông là đức khiêm tốn. Ông không bao giờ tự xem mình là lãnh tụ dù đã một thời được quần chúng tôn vinh là lãnh tụ, là thần tượng mà luôn thành tâm nhường ngôi vị ấy cho Nguyễn Ái Quốc.

Nguyễn An Ninh là ngôi sao sáng chói giữa bầu trời lịch sử thời đất nước còn đen tối và ông « Xứng đáng được lưu danh bằng bia đá, tượng đồng » như học giả Trần Văn Giàu đã nói.

Năm 2000, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, lãnh đạo thành phố Hồ Chí minh đã xây dựng nhà Lưu niệm Nguyễn An Ninh khang trang tại Trung Chánh Hóc Môn, nơi ông hoạt động suốt hơn 20 năm để ghi nhớ công ơn nhà Chí sĩ. Tên đường và tên nhiều trường học ở TP. Hồ Chí Minh được vinh dự đặt tên Nguyễn An Ninh. Đã có 3 cuộc Hội thảo khoa học về Nguyễn An Ninh tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Nhân kỷ niệm 70 năm ngày mất của ông, năm 2013, Nhà Xuất bản Trẻ đã tự nguyện in một tập sách về cuộc đời Nguyễn An Ninh, một biểu hiện tấm lòng tri ân, ngưỡng mộ đối với nhà yêu nước lớn của dân tộc.

Tuy vậy, trong sâu thẩm mọi trái tim, mọi người dân yêu nước vẫn còn đọng một chút băn khoăn về sự đối xử của Nhà nước ta hiện nay có phần chưa thỏa đáng đối với công lao, sự nghiệp, tầm ảnh hưởng của một chí sĩ, liệt sĩ vĩ đại, đặc biệt của dân tộc Việt Nam anh hùng.

TRƯƠNG THỊ SÁU

( BÀ NGUYỄN AN NINH)

clip_image066

Di ảnh Bà Trương Thị Sáu

Bà Nguyễn An Ninh nhũ danh Trương Thị Sa (tên thường dùng là Trương Thị Sáu), sanh ngày 26 tháng 6 năm 1899 tại Phước Lại, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (hiện nay là tỉnh Long An ).

Thân phụ bà là người Hoa từ Phúc Kiến (Trung Quốc) sang Việt Nam để mưu sinh và lấy vợ Việt Nam. Khi bà được hai tháng tuổi thì cha mất. Bà Sa và các anh chị phải sống tự lập. Ngoài việc ruộng rẫy bà còn học thêm nghề dệt chiếu, nghề may và cả nghề mộc.

Từ năm 18 tuổi, cô Sáu quyết tâm lên Sài Gòn lập nghiệp và năm 22 tuổi đã trở thành một chủ tiệm may có tiền dư dã, có sắc đẹp nổi danh là “ Cô Sáu Cầu Ông Lãnh” được các giới thượng lưu, trí thức, quan chức, thương gia mến mộ.

Năm 24 tuổi, cô gặp Nguyễn An Ninh, một người yêu nước chân chính, có chí khí hơn người nên đồng ý kết hôn với ông và bán tiệm may, bỏ cuộc sống xa hoa ở thành thị để về sống bên chồng tại quê Mỹ Hòa (Hóc Môn ), chấp nhận cuộc sống lao động vất vả của một phụ nữ nông thôn.

Sống trọn vẹn vì chồng

Về làm vợ ông Ninh, ngoài việc chăm lo gia đình và phụng dưỡng cha chồng, ( ông Nguyễn An Khương thường xuyên đau yếu) bà còn tận tình giúp ông nhiều việc trong sự nghiệp cứu nước mà ông đã dấn thân.

Bà lo tiền bạc cho ông đi Pháp rước cụ Phan Châu Trinh về nước để xây dựng phong trào chống Pháp; đồng thời lo chu đáo thuốc men, nơi ăn ở và chăm sóc cụ Phan. Bà còn giúp đở phương tiện vật chất, tiền bạc cho anh em đồng chí của Nguyễn An ninh, nhất là lo cho ông tiếp tục ra các tờ báo La Cloche Fêlée và l’Annam.

Nhân ngày giỗ giáp năm cụ Phan ( 1927 ), bà cùng cốt cán Thanh Niên Cao Vọng vận động hàng trăm ngàn người đi viếng mộ cụ Phan Châu Trinh và lo lộ phí cho chồng đi Pháp vận động cách mạng.

Tháng 3 năm 1928, khi ông Ninh bị bắt lần hai, Thống đốc Nam Kỳ mời bà lên định mua chuộc, dụ dỗ, hứa cấp tiền, cấp đất nếu khuyên được chồng thôi làm quốc sự. Nhưng bà khéo léo khước từ.

Năm 1929, lúc ông Ninh còn bị giam giữ, bà đã tận tình giúp đở ông Châu Văn Liêm từ Cần Thơ lên vùng Hóc Môn hoạt động. Bà còn giới thiệu cốt cán Thanh Niên Cao Vọng để ông Liêm tổ chức thành lập Đảng theo nguyện vọng của ông Ninh là: “ Khi nào phong trào Cộng sản hợp nhất thì giới thiệu các đầu mối tích cực cho Đảng”

Hai năm 1930 – 1931, phong trào đấu tranh của quần chúng sôi sục khắp Nam Kỳ. Bà tích cực vận động đồng bào và khi có mitting thì tổ chức lực lượng bảo vệ ở các vùng Đức Hòa, Hóc Môn, Trảng Bàng,v.v….

Cuối năm 1931, ông Ninh ra tù. Bà ra sức lo bảo đảm an ninh cho chồng, xây dựng khu nhà mình thành một hệ thống phòng ngự chặt chẽ không tên mật thám nào lọt vào được. Đồng thời, nhà bà trở thành trạm liên lạc để những người hoạt động gặp gỡ nhau hoặc nghĩ ngơi, bồi

dưỡng sức khỏe, hoặc tạm lánh vì bị mật thám truy bắt. Bà đã lo cho họ tất cả từ tiền tàu xe, quần áo đến mọi việc. Tính ra trong thời gian này có hàng ngàn người qua lại nhà bà và bà đã bán dần tư trang để lo giúp đỡ họ. Lý Tự Trọng cũng là một trong những người hay đến đây đọc sách báo, mà bà thường gọi chú Nhỏ hay “con mọt sách”.

Để có tiền, bà phải nấu dầu cù là cho ông Ninh và các anh em khác như Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Văn Nguyễn và nhiều đảng viên khác đi bán dạo, đồng thời để ngụy trang đi khắp nơi vận động quần chúng. Bà đã kiếm được một số tiền khá lớn để ra báo La lutte đóng góp vào việc vận động thắng cử của hai đảng viên Cộng sản Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai vào Hội Đồng Thành phố. Sau đó vào năm 1935, bà lại phải lặn lội xuống vùng Lục Tỉnh để bán lãnh (vải) mặc dù khi ấy bà đang mang thai đứa con thứ tư là Nguyễn Thị Minh. Nhờ đồng bào thương và giúp đỡ, bà kiếm được số tiền giúp ông Ninh khởi xướng phong trào Đông Dương Đại Hội

clip_image068

.

Di ảnh bà Trương Thị Sáu năm 1922- Cô chủ tiệm may Cầu Ông Lãnh

Trong cao trào của phong trào này, bà cũng tham gia đi vận động khắp nơi thành lập các Ủy ban Hành động. Và tại xã Mỹ Hòa bà được cử làm Chủ tịch Ủy ban. Bà làm việc ngày đêm, viết khẩu hiệu rồi đem treo khắp nơi, kể cả nhà việc của ban hội tề.

Qua nhiều năm sát cánh bên nhau, bà trở thành người đồng chí thân thiết của Nguyễn An Ninh, thường cùng ông bàn bạc những việc hệ trọng.

Sau khi ông Ninh bị bắt lần ba và bị tòa án Trà Vinh kêu án, bà viết một bức thư gởi Toàn quyền Đông Dương và Thống đốc Nam Kỳ xác định chồng mình vô tội, yêu cầu xét lại bản án ( xem phụ lục ).

Trong khi ông Ninh ngồi tù, tuy cuộc sống có vất vả bà vẫn cố gắng cho in và xuất bản quyển “ Phê bình Phật Giáo” mà ông vừa viết xong trước ngày bị bắt để tư tưởng Nguyễn An Ninh có dịp đi vào cuộc sống. Trong lời tựa, bà xác định việc làm này “ thuộc bổn phận của tôi trong lúc này”

Năm 1939, ông Ninh ra tù nhưng còn 5 năm biệt xứ nên phải cư trú ở Mỹ Tho. Bà đưa các con xuống cùng ở đó với ông. Rồi ông lại bị bắt và đày ra Côn Đảo. Bà đưa gia đình trở về sống tại Mỹ Hòa để chăm sóc người cô chồng là bà Nguyễn Thị Xuyên đang lâm bệnh nặng. Sau khi bà Xuyên mất, bà dọn về sống ở Bà Chiểu, thuê phố ở với người cháu dâu là Nguyễn Thị Một ( vợ ông Trương Văn Bang, nguyên Bí thư

Xứ ủy Nam Kỳ thời 1936). Vì lúc này bà Một cần một chỗ nương tựa để tiếp tục hoạt động sau khi Nam Kỳ khởi nghĩa bị thất bại. Khi đó quân Nhật mới vào Đông Dương, ba lần cho người đến tìm bà để mua lại tủ sách của ông Ninh và định mua chuộc bà, dụ dỗ ông Ninh cộng tác với chúng thành lập chánh phủ thân Nhật. Dù được tin chồng đang lâm bệnh nặng tại Côn Đảo, bà vẫn nhất quyết từ chối.

Thời gian này, bà chuyển sang làm bầu gánh Cải lương để mưu sinh, để tiếp tục nuôi giúp anh em làm cách mạng.

Tiếp tục đi theo con đường đã chọn

Cuối năm 1943, bà được tin Nguyễn An Ninh qua đời tại Côn Đảo để lại cho bà gánh nặng gia đình và sự nghiệp cứu nước còn dang dở. Bà vẫn quyết tâm tiếp nối chí hướng của ông.

Cuối năm 1944, tình hình Sài gòn căng thẳng vì máy bay đồng minh đánh phá. Bà phải đưa các con về quê nhà ở Cần Giuộc tạm trú để tiện việc đưa đoàn hát đi lưu diễn.

Tháng 8 năm 1945, cách mạng giành được chính quyền, nhưng bọn địch lấy hết tiền trong nhà băng. Theo yêu cầu của Xứ ủy, bà vận động các nhà tư sản ở Sài Gòn – Chợ Lớn trong một ngày đã có đủ tiền cho chánh quyền cách mạng, sau đó bà đi các tỉnh Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long v.v…để quyên tiền. Nhờ khí thế Cách mạng và uy tín

cá nhân, trong một thời gian ngắn bà đã đem về cho Đảng số tiền đủ chi dùng những ngày đầu khó khăn của cách mạng.

Pháp chiếm Sài Gòn và chuẩn bị tràn xuống Cần Giuộc. bà bỏ tiền nhà và vận động các thương gia người Hoa tiếp tế thực phẩm, tổ chức nấu cơm cho lực lượng tự vệ. Khi Cần Giuộc bị chiếm, bà lại chuyển gia đình trở lại Sài Gòn và tham gia công tác nội thành.

Sau Hiệp định sơ bộ ngày 06 tháng 3 năm 1946, bà được Xứ ủy giao trách nhiệm lập ra tờ báo công khai lấy tên “ Phụ Nữ”. Báo chỉ cần ra một số nhân ngày 19 tháng 5 năm 1946 để kêu gọi đồng bào Nam Bộ đoàn kết kháng chiến giành độc lập, và giới thiệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Nam Bộ, bà suýt bị giam giữ vì trên trang nhất có in ảnh Bác Hồ và lá cờ có ngôi sao năm cánh.

Năm 1947, bà tham gia công tác vận động thành lập Liên đoàn Thương gia, Liên đoàn Công chức và Mặt trận Liên Việt Thành Sài gòn, tham gia thực hiện chủ trương thống nhất phong trào phụ nữ toàn Nam Bộ. Bà đắc cử Hội trưởng Hội Phụ nữ Việt Nam thành Sài Gòn, ủy viên phụ trách tài chánh Ban Chấp hành Liên Việt thành phố .

Năm 1948, bà được điều ra chiến khu. Từ năm 1949 đến năm 1954, bà liên tiếp đảm trách các chức vụ: Ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ nữ tỉnh Rạch Giá, Phó Chủ tịch Mặt Trận Liên Việt Nam Bộ, chuyên trách công tác cứu tế xã hội, thành lập nhà bảo sanh, trại ấu nhi, ủy lạo bộ đội, tiếp nhận tù binh được trao trả, đón các đơn vị quân tình nguyện.

Bà được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1951 tại Rạch Giá. Lúc này Đảng Cộng sản đổi tên là Đảng Lao Động Việt Nam, chỉ kết nạp trường hợp thật đặc biệt. Cũng năm 1951 Xứ ủy được đổi tên là Trung ương Cục Miền Nam, từ Đồng Tháp Mười dời căn cứ xuống vùng khu 9 Nam Bộ. Để nuôi cả bộ máy kháng chiến ngoài tiền thì cần có lúa gạo, cần có sự đóng góp của tất cả địa chủ của các tỉnh Cần Thơ, Rạch Giá, Bạc Liêu, Sóc Trăng, là thành phần chưa thật tin cậy vào chánh quyền cách mạng. Ông Lê Duẩn chỉ đạo bằng mọi cách phải thuyết phục và kết nạp cho được bà Ninh vào Đảng, khi bà Ninh là cộng sản thì họ sẽ tin Cộng sản. Cũng đồng thời với bà Ninh còn có ông Cao Triều Phát, là hai người mà chủ trương của Trung Ương Cục phải kết nạp vào Đảng.

Bà Ninh vào Đảng thì giới địa chủ sẽ tin vào kháng chiến- Ông Phát vào Đảng thì các giáo phái đạo Cao Đài và cả Hòa Hảo cũng theo kháng chiến.

Từ năm 1929, từ Châu Văn Liêm, rồi Hà Huy Tập, Minh Khai, Trần Văn Giàu đều mời bà vào Đảng, nhưng bà đều từ chối. Nhưng lần này vì lợi ích của cuộc kháng chiến, cuối cùng bà nhận lời. Bà đã thành lập Hội Cứu tế xã hội ở khu 9 với hơn 200 địa chủ tham gia, đóng góp thóc gạo dư thừa để nuôi bộ đội,nuôi bộ máy kháng chiến suốt nhiều năm.

Năm 1954, bà tập kết ra Bắc trong khuôn khổ Hiệp Định Jenève. Tại Hà Nội, bà vinh dự được Bác Hồ mời đến thăm hỏi và dùng cơm thân mật cùng một số chị em khác. Đây là lần đầu tiên bà được gặp người mà chồng bà khi còn sống hết lòng ngưỡng mộ, thương yêu, tôn kính. Từ lần đầu tiên gặp cô Ninh cho đến ngày Bác Hồ mất, bà luôn được sự thăm hỏi ưu ái của Bác.

Từ năm 1955 đến năm 1970, bà được phân công xây dựng trường Nhi đồng miền Nam. Tuy công việc nặng nề, khó khăn vì thời kỳ này Mỹ đang đánh phá ác liệt miền Bắc, trường phải liên tục dời địa điểm nhưng bà vẫn hoàn thành nhiệm vụ với tính cách “ Con người Nguyễn An Ninh”. Tính cách này được bà thể hiện rõ rệt và nhất quán suốt mấy mươi năm qua, luôn sẳn sàng cống hiến, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

clip_image070

Ảnh bà Nguyễn An Ninh và 5 con chụp năm 1940

clip_image072

Bà Ninh và con đầu lòng năm 1927

Những phần thưởng cao quý:

Bà là đại biểu Quốc Hội khóa II và III liên tục trong 10 năm. Và trong thời gian từ năm 1955 đến 1970, bà được đi tham quan hàng chục nước như Trung Quốc, Mông Cổ, Liên Xô, Tiệp Khắc, Hugari, Bungari, Cộng hòa Dân chủ Đức, Anbani, Thụy Sĩ. Riêng tại Trung Quốc, bà gặp lại con trai Nguyễn An Tịnh đang du học ở Bắc Kinh, và tại Cộng hòa Dân chủ Đức , bà gặp người con út Nguyễn An Vĩnh đang theo học ở đây suốt 17 năm, sau này đậu bằng Tiến sĩ Khoa học. Trong cuộc đời bà, sự hy sinh lớn nhất là không thể tự mình chăm sóc các con ngay từ khi chúng còn thơ ấu mà phải gởi nhờ bè bạn dưỡng nuôi, trong đó có ông bà Võ Thành Cứ. Nhưng sự hy sinh ấy đã được đền bù xứng đáng, các con của bà đều nên người và đi theo con đường lý tưởng của cha mẹ.

Sau ngày miền Nam giải phóng (30-4-1975 ), bà trở về miền Nam và tuy đã nghỉ hưu, bà vẫn được các cấp lãnh đạo lưu tâm đặc biệt. Một vinh dự lớn cuối cùng là bà được mời tham dự Đại Hội Đảng lần thứ IV (1976) với tư cách khách mời.

Bà được tặng thưởng những Huân chương cao quý:

Huân chương Độc Lập hạng nhất

Huân chương chống Pháp hạng nhất

Huân chương chống Mỹ hạng nhì

Đó là những phần thưởng dành cho những công lao đóng góp của bà đối với đất nước. Vì Tổ quốc bà đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng của chồng. Và cao đẹp hơn, bà đã liên tục giúp ông bảo vệ khí tiết không để gợn chút bợn nhơ dù có lúc phải nén chặt đau thương, chấp nhận sự hy sinh cao độ bằng một ý chí sắt đá, một nghị lực phi thường hiếm có.

Bà từ trần ngày 03 tháng 12 năm 1983, hưởng thọ 84 tuổi. Tài năng, nhân cách, và đức độ của bà mãi mãi là sự tự hào, niềm vinh hạnh lớn lao cho con cháu và là tấm gương sáng cho phụ nữ Việt Nam.

clip_image073


PHỤ KHẢO


CHÍ SĨ NGUYỄN AN NINH

NGƯỜI ĐÁNH THỨC CẢ MỘT THẾ HỆ

clip_image075Tiến sĩ sử học người Pháp Daniel Héméry là giáo sư trường Đại học Paris VII đã viết trong quyển “ Sài Gòn 1925 – 1945” xuất bản tại Pháp tháng 4 năm 1993, trang 159: “ Nguyễn An Ninh nhà trí thức có uy tín nhất ở Miền Nam Việt Nam giữa những năm 1920 – 1940, người làm thức tỉnh cả một thế hệ”.

Còn giáo sư sử học Trần Văn Giàu đã viết lời tựa cho quyển “ Nguyễn An Ninh tác phẩm” xuất bản tại TP. Hồ Chí Minh năm 2009, trang 13- 14: “ Ở Nam Bộ những năm trước 1930, có một người đã có công đánh thức cả một thế hệ thanh niên còn mê ngủ….Những ngày chập

Di ảnh Ông Nguyễn An Ninh năm 1923

chững vào con đường cách mạng ở tuổi 14-15,tâm trí tôi như một tờ giấy trắng mà người đầu tiên viết lên đó những dòng chữ về yêu nước, về lý tưởng, về hoài bão không ai khác hơn là Nguyễn An Ninh”.

Với đại văn hào Pháp Romain Rolland, người đoạt giải Nobel năm 1915, trên báo “ Việt Nam Hồn” số 6 xuất bản tại Paris tháng 6 năm 1926, khi hay tin Nguyễn An Ninh bị thực dân Pháp bắt lần đầu tại Sài Gòn ngày 24 - 3-1926 đã viết; “ Tôi cùng các bạn đấu tranh cho Nguyễn An Ninh. Tôi cho rằng anh ấy đã làm nghĩa vụ của mình khi bảo vệ quyền của đồng bào anh. Tôi cho rằng bằng cách tố giác những sự lạm quyền của chế độ thuộc địa, anh ấy đã phục vụ chẵng những cho người Đông Dương mà cho cả nước Pháp nữa. Bởi vì nước Pháp có lợi khi được biết sự thật. Nó có lợi khi người ta tố giác với nó những sự lạm quyền làm ô danh nước Pháp. Nó có lợi khi có sự cộng tác chân thành được thiết lập giữa người Đông Dương và người Pháp”

Nguyễn An Ninh một thuở là thần tượng của thanh niên và đồng bào Nam Bộ..

Nguyễn An Ninh sinh năm 1900, sinh ra và lớn lên trên đất Gia Định Sài Gòn xưa, cả đời ông gắn với mảnh đất Nam kỳ. Tuổi thơ của Nguyễn An Ninh được hun đúc bằng những hình ảnh đẹp của người cha. Thân phụ ông là cụ Nguyễn An Khương, một nhà nho yêu nước, là một nhà giáo tự mở trường, tự soạn sách về những gương hiếu nghĩa để dạy học trò, là một lương y cứu giúp người không lấy tiền. Cụ thành lập

khách sạn Chiêu Nam Lầu để chiêu hiền đãi sĩ cho các phong trào yêu nước. Cụ là một trong ba người lãnh đạo phong trào Đông Du ở Nam Kỳ. Năm 1908 khi phong trào bị thực dân Pháp phát giác, ba người lãnh đạo là Trần Chánh Chiếu, Nguyễn An Khương, Nguyễn Thần Hiến đều có trát đòi. Trần Chánh Chiếu và Nguyễn An Khương bị tống giam, Nguyễn Thần Hiến trốn thoát sang Xiêm, rồi sang Quảng Châu để gặp cụ Phan Bội Châu.

Quyết noi gương cha, Nguyễn An Ninh đã cố gắng học thật giỏi với ước mong có kiến thức để trở thành người ích nước lợi dân. Năm 16 tuổi, với thành tích học tập xuất sắc ông được tuyển thẳng vào trường Cao Đẳng Hà Nội. Nhưng ông đã thất vọng khi nhận ra nền giáo dục của thực dân chỉ nhằm đào tạo những người làm tay sai cho bộ máy cai trị.

“ BẾ TẮC”

Trong quyển “ Nguyễn An Ninh tác phẩm” trang 914 có đoạn “ Khi xưa tôi lấy làm mê Thích Ca và Jésus….Cha già kia thất bại mấy phen cũng tù rạc như ai, mà ngày chết không thấy được công dày có hiệu quả gì cho thiên hạ. Trai thanh niên nối chi, mười tám tuổi không suy ra phương chống nổi với trời xanh, thôi đành theo phật, hơn để trầm luân trong bể tanh hôi”

Những dòng chữ trên đây là Nguyễn An Ninh tự viết về mình, một thanh niên mới mười tám tuổi, thông minh, học giỏi, đầy nhiệt huyết lại thấy mình bất lực, có ý định theo Phật, và ông đã tập trung nghiên cứu đạo Phật, nhờ nghiên cứu sâu đạo Phật, mà ông đã tìm ra con đường để dấn thân, ông viết: “ Đạo Phật đối với đời là vô hy vọng, mà nếu thời nay trong thế giới loài người tìm ra con đường mới có hy vọng….cho nên thà chui vào đời, lấy sức lực ráng thắng sự đau khổ, rủ bạn bè đồng chí nổ lực chống với đời để thêm hy vọng cho con cháu về sau. Tôi xa đạo Phật vì ý đó” (sđd trang 915)

Con đường dấn thân của Nguyễn An Ninh là rời bỏ ngôi trường giáo dục ngu dân, là thoát khỏi bóng đen hắc ám của màng lưới mật thám khi thân phụ là liên can trong vụ án “ Gilbert Chiếu cùng đồng bọn âm mưu chống Pháp” ( hồ sơ vụ án số 159). Con đường dấn thân đó là tìm đến nơi có cuộc cách mạng dân chủ nổi tiếng, nơi đã ươm mầm cho những tư tưởng tự do, bình đẳng , bác ái mà Nguyễn An Ninh rất ngưỡng mộ. Nguyễn An Ninh đang cần một người đưa đường chỉ lối. Ông viết : “ Đất nước chúng ta đang cần biết bao những con người hiểu biết tâm hồn nòi giống mình, hiểu biết những nhu cầu tinh thần và những gì phù hợp với tâm hồn nòi giống chúng ta, chúng ta đang cần những con người có khả năng hướng dẫn từng bước đi cho dân tộc, soi sáng con đường đi của dân tộc” ( sđd trang 69 )

Khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất ( 1914 – 1918 ) chưa kết thúc, tiếng súng ở miền nam nước Pháp đã yên, nhưng tiếng súng ở mặt trận phía đông giáp với nước Đức vẫn còn. Đó là thời điểm thuận lợi cho Nguyễn An Ninh thoát khỏi tầm kiểm soát của bộ máy cai trị, trốn sang Pháp khi ông đủ 18 tuổi.

Đến Paris, sau khi ổn định cuộc sống, ông tập trung trí lực vào học để ôn thi, chỉ ba tháng ông đậu vào trường Đại học Sorbonne, một năm sau ông đậu bằng Cử nhân Luật xuất sắc. Thành tích của ông được Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp biểu dương và chuyên viên cấp cao của Bộ là Pasquier, sau này là Toàn quyền Đông Dương yêu mến nhận làm con nuôi, đở đầu cho ông những năm sống trên đất Pháp.

Những sự ưu ái đó đã khiến Thống đốc Nam kỳ là Cognacg tức giận, đề nghị Toàn quyền Đông Dương can thiệp và Bộ thuộc địa Pháp trả lời như sau:

Công điện số 183

Paris, ngày 28 tháng 01 năm 1921

Bộ thuộc địa gởi Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội – Đồng ý với toàn quyền Đông Dương. Miễn trừ cho sinh viên Nguyễn Văn Ninh số nhà 49 đại lộ Charner Sài Gòn khỏi phải nộp 404 đồng 78 xu số tiền bồi hoàn khoản học phí của sinh viên này. Sinh viên này vừa thi tốt nghiệp xuất sắc về luật tại trường Đại Học Paris.

Bộ thuộc địa

Gặp được người đưa đường chỉ lối

Là một thanh niên còn rất trẻ, lại thông minh hoạt bát, thân thiện và rất giỏi tiếng Pháp, Nguyễn An Ninh được sự cảm mến giúp đở của mọi người. Ông tận dụng thời gian tìm đọc các loại sách báo trong thư viện, không bỏ sót các buổi sinh hoạt câu lạc bộ các nhà trí thức,ông luôn ghi nhớ sự chỉ giáo của các bậc thầy, kết thân với các nhà cách mạng, giao du với bạn bè là nhà văn, nhà báo. Ông tìm mọi cách để tiếp thu những tinh hoa của nhân loại qua sách vở, qua cuộc sống và trí tuệ của con người, rất nhiều điều phải học và đó là những bài học quý báu cho hoạt động của ông sau này.

Trong số bạn bè có hai người đã có nhiều ảnh hưởng đến tầm suy nghỉ và hành động của Nguyễn An Ninh. Đó là Giáo sư Marcel Cachin, thầy đở đầu suốt những năm học ở trường đại học Sorbonne mà ông quý mến như cha. Đó là Nguyễn Ái Quốc, người quen biết của khách sạn Chiêu Nam Lầu, người bạn mà Nguyễn An Ninh chia sẽ khó khăn trong học tập, trong cuộc sống và hoạt động cách mạng những năm trên đất Pháp, người mà Nguyễn An Ninh thương yêu như anh cả. Nguyễn An Ninh sớm nhận ra người thanh niên ấy chỉ với hai bàn tay trắng nơi đất

khách quê người, chưa có một mảnh bằng, nhưng có trí thông minh sắc sảo tuyệt vời, có nghị lực đấu tranh phi thường, người ấy dễ dàng cảm hóa và lôi cuốn mọi người. Đây chính là người mà Nguyễn An Ninh từng ao ước mong đợi. Vì vậy mà năm 1921 khi Nguyễn An Ninh viết xong luận án tiến sĩ luật, cũng là lúc Nguyễn Ái Quốc gặp nhiều khó khăn trong nhóm các nhà yêu nước Việt Nam qua nhiều đêm tranh luận gay gắt. Nguyễn An Ninh suy nghĩ nhiều và ông không thể nào học tiếp, mảnh bằng có giá trị gì khi nước mất, dân nô lệ. Ông quyết tâm không thi, rời bỏ trường đại học để có thời gian nhiều hơn sát cánh cùng Nguyễn Ái Quốc, để cùng san sẽ khó khăn trong công việc. Cũng từ đây, tập hồ sơ của mật thám mang ký hiệu SPCE/384, lưu giữ tại Trung tâm lưu trữ hải ngoại Pháp ngày càng dày thêm.

Cũng trong năm 1921, có một thanh niên vừa tốt nghiệp kỷ sư hóa ở Toulouse, lên Paris học tiếp để lấy bằng tiến sĩ tại trường đại học Sorbonne, đó là Nguyễn Thế Truyền cũng bị sức hấp dẫn của Nguyễn Ái Quốc, rồi Truyền cũng bỏ học, bỏ thi tiến sĩ, cùng chung chí hướng, họ trở thành bộ ba thương yêu nhau cùng nhau sát cánh hoạt động.

Truyền và Ninh, bước đầu chỉ là hai nhà trí thức Tây học, đều có ước mơ học thật giỏi, am hiểu mọi lĩnh vực để đủ khả năng trở về quê hương hướng dẫn đồng bào đấu tranh chống lại sự áp bức, đòi lại sự công bằng và giá trị con người. Nhưng khi gặp được Nguyễn Ái Quốc, sát cánh cùng Nguyễn Ái Quốc, họ trở thành những nhà yêu nước nổi tiếng trên đất Pháp, trong nhóm “ Ngũ Long “. Tại Paris họ tham gia diễn thuyết, viết báo tố cáo tội ác của thực dân, vận động kiều bào đoàn kết đấu tranh hướng về tổ quốc.

Họ được lãnh tụ của Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản Pháp quý mến, đặc biệt là Đảng Cộng sản Pháp luôn tạo điều kiện để họ hoạt động công khai hợp pháp, bảo vệ họ khi gặp nguy hiểm.

Nhưng đó chưa phải là mục tiêu đấu tranh của họ, điều mong muốn lớn lao mà họ thề nguyện cùng nhau sẽ phấn đấu suốt cuộc đời là Tổ quốc độc lập, dân tộc thoát kiếp nô lệ để sánh vai cùng bạn bè thế giới. Điều mong ước của họ là tâm huyết mà Nguyễn An Ninh đã viết khi về nước.

“ Chúng ta sinh ra vào một thời đại mà nhiệm vụ đòi hỏi ở ta quá nặng nề vượt quá sức của ta. Chúng ta có bổn phận phải hy sinh để xây dựng một tương lai mà chúng ta không kịp nhìn thấy….Chúng ta sinh ra trong một nòi giống đã luôn luôn phải trả gía rất đắt cho quyền được sống của mình.” ( Sđd trang 145).

Nhưng làm cách mạng giải phóng dân tộc bằng cách nào, đi theo con đường nào? Với họ vẫn chưa có lời giải, đấu tranh bằng con đường nghị viện như Đảng Cộng sản Pháp, hay làm cuộc cách mạng vô sản như ở Nga, hoặc bằng sức mạnh tinh thần đoàn kết toàn dân bất hợp tác với

thực dân như Ấn Độ? Có lẽ trước mắt là tấm gương đoàn kết bằng tinh thần của nhân dân Ấn Độ như Nguyễn An Ninh đã viết trong bài “ Người An Nam với chủ nghĩa Gandhi “ Người An Nam tự hỏi, họ có thể dùng phương pháp đấu tranh của ông Gandhi để từng bước từ từ giành lại nền tự do hay không ? Những biến cố đang xãy ra ở Phi Luật Tân, ở Ấn Độ đã lôi cuốn họ. Họ mong sao đến lượt dân An Nam theo gương các dân tộc trên cũng đứng lên tự giải phóng mình khỏi ách thống trị của Châu Âu…

Dĩ nhiên Gandhi cũng đã tuyên bố rằng: Tôi thích thấy nước Ấn Độ được tự do bằng bạo lực, còn hơn bị xích lại bởi bạo lực của bọn thống trị”.(sđd trang 413-415 )

Bộ ba xác định hướng đi tới

Họ muốn kết hợp mọi sức mạnh cần thiết trên con đường vô vàn khó khăn mà họ bắt đầu. Tháng 10 năm 1922 Nguyễn An Ninh trở về nước thăm dò tinh thần của quần chúng và sự phản ứng của nhà cầm quyền bằng bài diễn thuyết đầu tiên vào đêm 25 tháng 01 năm 1923 tại hội Khuyến học Nam kỳ. Thính phòng chật ních người nghe. Điều quan trọng là quần chúng không quan tâm người nói là ai, nói hay hay nói dỡ ra sao. Mà quan trọng là nội dung bài nói đã khơi dậy tinh thần dân tộc.

“ Cần xây dựng cho dân An Nam ta một nền văn hóa. Dân tộc nào bị thống trị bởi nền văn hóa ngoại bang thì dân tộc ấy không thể có độc lập thật sự. Văn hóa là tâm hồn của một dân tộc” (sđd trang 64)

Nội dung bài diễn thuyết đã giữ chân mọi người, không ai bỏ về, còn vỗ tay nhiệt liệt nhiều lần. Nguyễn An Ninh mừng quá, điều đó chứng tỏ quần chúng còn đầy nhiệt huyết, chỉ cần có người khơi dậy, dù người đó chỉ là một thanh niên mới 23 tuổi chưa có tiếng tăm. Còn nhà cầm quyền cũng không có phản ứng gì, theo Nguyễn An Ninh tại xứ Nam kỳ dù sao nó vẫn tự xưng là thuộc địa, là miền đất nếu biết cách vận dụng luật lệ hợp pháp, chúng ta có thể làm được nhiều việc mà nhà cầm quyền khó buộc tội.

Nguyễn An Ninh vội vàng thu xếp trở sang Pháp vào tháng 02 năm 1923 để bàn bạc thực hiện kế hoạch lâu dài mà bộ ba từng mong ước đó là:

- Nguyễn Ái Quốc là người quyết định đường lối, sẽ sang Nga học cách tổ chức và lãnh đạo một cuộc cách mạng, với sự trợ giúp của Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng Sản Liên Xô.

- Nguyễn An Ninh về nước mở đường, thức tỉnh quần chúng nhất là lực lượng thanh niên và trí thức, xây dựng cơ sở cách mạng, tập hợp lực lượng quần chúng yêu nước chờ ngày Nguyễn Ái Quốc trở về.

- Nguyễn Thế Truyền là người luôn ủng hộ đường lối của Nguyễn Ái Quốc, người bạn đồng hành suốt cuộc đấu tranh, sẽ ở lại Paris giữ đầu

mối liên lạc giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn An Ninh, là người sẽ thay Nguyễn Ái Quốc duy trì tờ Le Paria và phong trào yêu nước tại Pháp, với sự giúp đỡ của Đảng Cộng Sản Pháp và kiều bào Việt Nam.

Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật sang Nga. Tháng 8 năm 1923, Nguyễn An Ninh trở về nước. Kế hoạch này hoàn toàn bí mật, khi nhà cầm quyền Pháp phát hiện Nguyễn Ái Quốc mất tích, thì Đảng Cộng Sản Pháp đã đưa Nguyễn Ái Quốc ra khỏi biên giới.

Từ ngày về nước, Nguyễn An Ninh vận dụng những điều đã học trên đất Pháp, nắm vững luật lệ của nhà cầm quyền, việc nào làm công khai, việc nào phải bí mật để tránh tù tội, xữ lý thật linh hoạt trong mọi hoàn cảnh khi không còn Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thế Truyền bên cạnh. Người gợi mở cho ông khi khó khăn là cha già Nguyễn An Khương tuy bại liệt nhưng rất minh mẫn, cha là chỗ dựa vững chắc cho ông về tiền bạc khi hoạt động.

clip_image077

Các tác phẩm của Ông Nguyễn An Ninh

Làm báo và diễn thuyết

Nguyễn An Ninh thực hiện mọi việc như đã bàn bạc cùng nhau trên đất Pháp. Làm báo và diễn thuyết để đánh thức tinh thần dân tộc, để thổi bùng ngọn lửa yêu nước. Viết báo cho những ai có học hành đọc, diễn thuyết cho những người ít học nghe. Rồi tập hợp quần chúng vào một tổ chức, hướng dẫn quần chúng cách đấu tranh. Xây dựng cơ sở quần chúng ngày càng hùng hậu vững vàng, là lực lượng cách mạng khi cần thiết. Đối tượng quần chúng là tất cả những ai yêu nước thương nòi.

Nơi gieo mầm trước tiên là thanh niên và viên chức ở thành phố, trí thức ở nông thôn như thầy giáo và hương chức trong bộ máy làng xã.

Báo « La Cloche Fêlée» của Nguyễn An Ninh được người đọc yêu thích thì nhà cầm quyền tìm cách uy hiếp người đọc, vì không cấm được ông cử nhân luật đã chấp hành đúng luật lệ quy định. Công chức đọc báo bị đuổi việc, học sinh đọc báo bị đuổi học, binh lính đọc báo bị đổi đến nơi xa xôi hẻo lánh, các nhà tư sản điền chủ đặt mua báo thì tiền bị chận lại ở bưu điện, nhà in nào in báo thì chủ nhà in bị đe dọa, trẻ em bán báo thì bị đưa về bót, bị tịch thu hết báo. Đã không ít lần bọn lính bị những cú đấm đầy võ nghệ giữa phố của Nguyễn An Ninh khi ông nhìn thấy những hành vi hà hiếp trẻ vô tội. Chưa có tờ báo nào ở xứ Nam kỳ bị khổ sở như tờ báo của Nguyễn An Ninh. Vì vậy mà tờ báo của ông tuy chưa lần nào bị nhà cầm quyền đóng cửa, nhưng ông phải tự đình bản nhiều lần.

Còn trụ sở hội đoàn nào mời Nguyễn An Ninh diễn thuyết thì nơi đó bị rút giấy phép hoạt động. Thời đó họ cấm dân tụ họp quá 19 người. Vậy là bến xe, chợ búa, rạp hát, đình chùa là nơi Nguyễn An Ninh tìm đến diễn thuyết. Từ miền Đông đến miền Tây Nam kỳ, hễ Nguyễn An Ninh đi đến đâu, vừa dừng chiếc xe đạp là bà con đã vây quanh, bọn mật thám theo sát ông, bọn làng lính cũng đến xua đuổi, nhưng rồi làng lính và mật thám cũng nghe luôn.

Rồi Nguyễn An Ninh thành lập tổ chức “ Thanh niên Cao Vọng”, kết nạp hội viên, tổ chức học hành ban đêm trong chùa hay ngoài đồng trống, ai mù chữ thì học chữ, rồi học lịch sử nước nhà, học cách chống giặc của cha ông ngày xưa, đọc thêm sách báo để biết thêm những gì đang xảy ra trên thế giới. Nhà của Nguyễn An Ninh có cả một tủ sách mấy ngàn quyển, ai có thì giờ cứ đến đọc. Vùng Bà Điểm –Hóc Môn, Đức Hòa, Đức Huệ (1) là nơi rất an toàn, người dân đều biết võ nghệ và bọn lính thì không dám bén mảng đến. “ Thanh Niên Cao Vọng’ cứ lan dần, bắt đầu từ 18 thôn vườn trầu cuối năm 1924, sang năm 1925 – 1926 -1927 phát triển khắp Gia Định Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Bà Rịa. Đến cuối năm 1928 thì xuống cả miền Tây với số hội viên chính thức theo số liệu của Nguyễn An Ninh là 4000 người, còn theo tư liệu của mật thám lưu trữ tại Pháp ( hồ sơ SPCE/367) là 5000 người.

clip_image079

Sơ đồ Tổ Chức Thanh Niên Cao Vọng

Tại Nam kỳ những năm 1925 đến năm 1927 một làn sóng du học đã tạo nên một lớp trí thức trẻ dám hy sinh vì Tổ quốc, mà theo nhận xét của tiến sĩ Daniel Héméry trong quyển “Sài Gòn 1925 – 1945” thì “Nguyễn An Ninh đã phát động sự vùng lên của giới thanh niên cấp tiên qua hai cuộc diễn thuyết tại hội Khuyến học Nam kỳ….đã vang dội như sự cổ vũ cho sự dấn thân tập thể của những người trí thức trẻ, việc gánh lấy các nỗi thống khổ của đất nước”.

“ Đưa Nguyễn Ái Quốc về thôn tính Đông Dương”

Suốt thời gian Nguyễn An Ninh về nước từ cuối năm 1923, đầu mối liên lạc giữa bộ ba do Nguyễn Thế Truyền đảm nhiệm vẫn duy trì. Việc liên lạc giữa Paris và Đông Dương không có gì khó khăn và có nhiều cách : qua đường dây thủy thủ của ông Huỳnh Tấn Kiệt thư ký hảng tàu Les Chargeurs Réunis, qua bạn bè thân tín của Nguyễn An Ninh là trạng sư, là nhà báo, là đảng viên cộng sản Pháp làm việc trong bộ máy cai trị. Những lúc Nguyễn An Ninh ngồi tù thì cụ Nguyễn An Khương thay thế, cụ có kinh nghiệm trong việc tổ chức đường dây bí mật trong phong trào Đông Du.

--------------------

(1) Huyện Đức Huệ do Ngô Đình Diệm lập năm 1956, của tỉnh Tân An (xưa là Đức Hòa Thành), giáp với biên giới Việt Nam – Campuchia , có khu trù mật to đầu tiên để ngăn Cộng sản từ Campuchia tràn xuống

Sau đó, Nguyễn An Ninh cũng hai lần sang Pháp.

Năm 1925 sang để đón cụ Phan Châu Trinh về vì cụ bị ho lao giai đoạn cuối, cụ muốn được an nghỉ trên mảnh đất quê hương. Thời gian này Nguyễn Thế Truyền gặp nhiều khó khăn về tiền bạc, thiếu sự ủng hộ của kiều bào. Kiều bào Việt Nam muốn ra báo tiếng Việt và họ sẳn sàng ủng hộ cho báo tiếng Việt. Còn kiều dân các nước thuộc địa khác cũng có nhu cầu của họ. Nên Ban chấp hành Hội Liên Hiệp thuộc địa không thống nhất, mất đoàn kết, một mình Nguyễn Thế Truyền không thể lèo lái tình hình như khi còn Nguyễn Ái Quốc.

Năm 1927 Nguyễn An Ninh sang Pháp để đón gia đình Nguyễn Thế Truyền về nước, cùng Nguyễn Thế Truyền bàn cách để duy trì phong trào yêu nước của kiều bào và nhờ Đảng Cộng sản Pháp giúp đở. Lần này họ hy vọng gặp được Nguyễn Ái Quốc, vì Đảng Cộng sản Pháp cho biết Nguyễn Ái Quốc đang có mặt tại Mạc Tư khoa. Suốt hơn hai tháng chờ đợi, cuối cùng đầu tháng 12 năm 1927, ba người bạn đã bí mật gặp nhau tại văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Pháp. Theo tư liệu của sở mật thám Nam kỳ, việc đi lại của Nguyễn An Ninh trước khi sang Pháp lần này được ghi chép khá nhiều, thư từ của Nguyễn An Ninh từ Pháp gởi về lần này cũng bị bóc ra xem. Trong thông tri mật của sở mật thám Nam kỳ ghi rõ nội dung cụ thể, có đoạn như sau:

Thông tri mật số 523 –S

Sài gòn ngày 22 tháng 8 năm 1927

Kính gửi- Ông Thống đốc Nam kỳ ở Sài Gòn

Đồng gửi các ông Tổng giám đốc cảnh sát

Và mật thám Đông Dương ở Hà Nội.

….“ Tiếp theo thông tri mật số 515 –S ngày 20 tháng 8 năm 1927. Tổng Bình Thạnh Hạ ( Vùng Bà Điểm ) tiếp tục bị quấy rối bởi các hội viên của Nguyễn An Ninh.

Những người này nói rằng Nguyễn An Ninh nhân dịp sang Pháp lần này để bắt liên lạc với những người cực đoan Pháp, trong đó có nghị sĩ Cachin và Doriot đang có quan hệ với Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Ý đồ của Nguyễn An Ninh trước sau vẫn là đưa Nguyễn Ái Quốc về thôn tính Đông Dương”….

Đây là lần gặp cuối cùng giữa ba người bạn, để rồi sau đó Nguyễn An Ninh về nước mỏi mòn chờ đợi, còn Nguyễn Thế Truyền đến chết vẫn mang nỗi niềm vô vọng.

Gặp Phạm Văn Đồng trong tù

Đầu năm 1928, Nguyễn Thế Truyền cùng vợ con trở về nước sống cùng gia đình Nguyễn An Ninh để làm báo và chờ đợi ngày về nước của Nguyễn Ái Quốc.

Điều không may xảy ra là bà Truyền bị rắn cắn được cứu chữa thoát chết nhưng không dám sống ở nông thôn. Khách sạn Chiêu Nam Lầu của gia đình Nguyễn An Ninh cũng đã phát mãi từ năm trước. Vì vậy Nguyễn Thế Truyền phải đưa cả gia đình về Nam Định nhờ sự chu cấp của cha mẹ.

Kế hoạch làm báo gặp trắc trở. Nguyễn An Ninh phải cạo trọc đầu giả vờ đi tu để bôn ba khắp nơi phát triển lực lượng “Thanh niên Cao Vọng” và hướng dẫn quần chúng xây dựng vùng cơ sở cách mạng rộng lớn nối liền Bà Điểm – Hóc Môn, Đức Hòa, Trảng Bàng, Gò Dầu (Tây Ninh) và từ Đức Hòa sang Cần Giuộc, Cần Đước, Bến Lức, Gò Đen, Chợ Gạo, xuống miền Tây. Nguyễn An Ninh có thể lội bộ bất kể ngày đêm, vùng này sang vùng khác suốt cả tháng trời rất an toàn và không sợ đói rét. Nhà cầm quyền muốn bắt Nguyễn An Ninh nhưng không có bằng chứng.

Điều không may lại xảy ra khi Nguyễn An Ninh ra tay đánh tên cai Trần Văn Nên giải cứu cho Phan Văn Hùm. Sở mật thám tìm mọi cách dàn dựng buộc tội Nguyễn An Ninh lập Hội Kín để bỏ tù trừ hậu họa.

Ngồi tù Khám Lớn ông lại gặp may khi gặp Phạm Văn Đồng người của tổ chức “Thanh niên cách mạng đồng chí Hội” được phái về để thành lập Đảng Cộng Sản. Phạm Văn Đồng bị bắt trong vụ án mạng ở đường Barbier cùng với hàng loạt hội viên “Thanh niên cách mạng đồng chí Hội” khác. Vì vậy khi Châu Văn Liêm mở đại hội thành lập An Nam Cộng sản Đảng đã được sự trợ giúp của bà Nguyễn An Ninh và lớp cốt cán kỳ cựu của “Thanh niên Cao vọng” như Võ Thành Mong, Hồ Văn Long, Võ Văn Tần, Võ Văn Ngân, Nguyễn Văn Nhâm, Nguyễn Văn Tiếp, Nguyễn Thị Thiên,v.v…

Cuối năm 1931 mãn hạn tù 3 năm, Nguyễn An Ninh rất nóng lòng vì người của Nguyễn Ái Quốc đã về và đã thành lập Đảng, còn Nguyễn Ái Quốc vẫn biệt tăm. Nguyễn An Ninh tìm mọi cách ra Bắc để gặp Nguyễn Thế Truyền bàn bạc. Bao nhiêu đơn xin phép ra Bắc đều bị nhà cầm quyền từ chối. Trong năm 1932 Sở mật thám Nam Kỳ ra nhiều thông tri, đây là một trong số đó:

Thông tri số 2859 – S mật

Sài gòn, ngày 13 tháng 8 năm 1932

Kính gửi ông Chánh cảnh sát Bắc Kỳ ở Hà Nội

Đồng kính gửi các ông Giám đốc Nha chính trị và

Mật thám Đông Dương ở Hà Nội

Chánh cảnh sát Trung Kỳ ở Huế.

….Nguyễn An Ninh không thực hiện được chuyến đi Bắc Kỳ tháng 11 năm 1931 như anh ta đã có ý định để gặp Nguyễn Thế Truyền. Ninh có lẽ đã nhờ người đi thay mình, chắc chắn về mục đích chính trị….

Mòn mõi đợi chờ

Giữa lúc đó thì báo chí Sài Gòn đưa tin Nguyễn Ái Quốc bị bắt giam ở Hương Cảng, bị ho lao và đã từ trần.

Biết đấy là âm mưu của thực dân gây hoang mang cho những nhà cách mạng, Nguyễn An Ninh càng quyết tâm tìm mọi cách ra Bắc.

Tháng 8 năm 1933, một phái đoàn đi dự hội nghị Quốc Tế Hòa Bình chống chiến tranh ở Thượng Hải do ông Paul Vaillant Couturier dẫn đầu ghé qua Sài Gòn. Gần sáu năm mới gặp lại nhau, Nguyễn An Ninh mừng lắm. Mừng hơn nữa khi nghe ông cho biết Nguyễn Ái Quốc còn sống, ông đã gặp Nguyễn Ái Quốc ở Thượng Hải tại nhà bà Tống Khánh Linh, và ông đã thu xếp cho Nguyễn Ái Quốc sang Mạc Tư Khoa an toàn.

Nguyễn An Ninh vội lập danh sách tù chính trị bị giam giữ tại Sài Gòn và quản thúc tại địa phương để Đảng Cộng sản Pháp đấu tranh trước Nghị viện Pháp đòi thả tù chính trị. Vì P.V.Couturier cũng là nghị sĩ Quốc hội Pháp nên Nguyễn An Ninh nhờ ông tìm cách đưa Ninh ra miền Bắc để bàn với Nguyễn Thế Truyền sang Pháp nối lại liên lạc với Nguyễn Ái Quốc và tìm cách đưa Nguyễn Ái Quốc về Nam Kỳ. Ông nhận lời và tìm cách đưa Nguyễn An Ninh đi như một nhóm nhà báo tháp tùng theo đoàn. Nhưng nhà cầm quyền Pháp đã ra hàng loạt điện và thông tri tháng 9 và tháng 10 năm 1933 gửi cảnh sát Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc kỳ phối hợp để ngăn chặn chuyến đi này. Xin trích một trong số đó

Thông tri mật số 2193

Huế, ngày 9 tháng 10 năm 1933

Gửi các quan Công sứ ( Chủ tỉnh ) các tỉnh Trung Kỳ

Đồng gửi các ông Chánh mật thám các tỉnh.

Nguyễn An Ninh có lẽ sẽ đi Hà Nội sau khi gặp được đoàn đại biểu Châu Âu đi dự hội nghị Thế giới đấu tranh chống chiến tranh họp ở Thượng Hải về ghé qua Sài Gòn.

Trần Văn Thạch và Nguyễn Văn Tạo có lẽ sẽ không đi cùng Nguyễn An Ninh. Nguyễn An Ninh sẽ thực hiện chuyến đi cùng Trần Thiện Quý . Hình như cả hai người đi bằng ô tô của hiệu thuốc Nhị Thiên Đường của người Hoa ở Chợ Lớn.

Tôi đề nghị các ông điện cho tôi biết khi có Nguyễn An Ninh ghé lại địa phương mình để hoạt động tuyên truyền hoặc để điều tra làm phóng sự. Lúc đó tôi sẽ ban hành nghị định trục xuất Ninh khỏi địa phương.

Chánh cảnh sát Trung kỳ

Sogny

Đi không thoát nhưng cuối cùng Nguyễn An Ninh cũng nhờ người liên lạc được với Nguyễn Thế Truyền. Đầu năm 1934, Truyền đã thu xếp trở sang Pháp để nối liên lạc với Nguyễn Ái Quốc chờ thời cơ tìm cách đưa Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương với sự hổ trợ của Đảng Cộng sản Pháp.

Thời cơ đó là đầu năm 1936 khi bên Pháp thành lập liên minh Mặt trận Bình dân có sự tham gia của Đảng Cộng sản Pháp, thì ở Sài Gòn thực dân cũng nới lỏng mọi kiểm soát và dân chúng được phép tự do đi lại. Nguyễn An Ninh chờ tin tức của Nguyễn Thế Truyền và chuẩn bị sẳn sàng để sang Pháp với kế hoạch ngụy trang để đưa Nguyễn Ái Quốc về Sài Gòn. Lúc đầu Đảng Cộng Sản Pháp nhất trí nhưng khi Mặt trận Bình dân thắng cử và thành lập chính phủ thì Đảng Cộng sản Pháp lại rút lui không tham gia. Kế hoạch Đảng Cộng sản Pháp đưa Nguyễn Ái Quốc về Paris cũng hủy bỏ.

Nguyễn An Ninh rất buồn, vì theo ông đây là cơ hội ngàn năm có một, lịch sử không bao giờ lập lại lần thứ hai. Vì vậy mà hai Đảng trong liên minh còn lại là Xã Hội và Xã Hội Cấp Tiến chia nhau ghế của các Bộ. Chỉ cần Đảng Cộng Sản tham gia lập chính phủ và chỉ cần nắm giữ Bộ Thuộc Địa thì phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ có nhiểu thuận lợi, một cơ hội ngàn năm có một đã vuột khỏi tầm tay.

Chớp thời cơ, khẩn trương xây dựng cơ sở cho cách mạng

Cơ hội gặp lại Nguyễn Ái Quốc trên quê hương không còn nữa. Vùng căn cứ rộng lớn trở thành căn cứ địa đón Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương về, suốt từ năm 1936 -1939 đến khi Chiến tranh Thế giới lần thứ hai nổ ra. Không đón được Nguyễn Ái Quốc thì đây cũng là thời cơ tốt để tập dượt quần chúng biết cách tổ chức lãnh đạo phong trào ở cơ sở. Nguyễn An Ninh bàn với ông Trương Văn Bang là quyền Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ tận dụng cơ hội được nới rộng tự do ăn nói và đi lại để phát triển lực lượng và xây dựng phong trào cách mạng. Đây là việc làm cuối cùng của Nguyễn An Ninh để rồi sau đó ông phải vào tù liên tiếp và hy sinh ngoài Côn Đảo.

Việc mở Đông Dương Đại hội ngày ấy tốn không biết bao nhiêu giấy mực của báo chí Sài Gòn và cả nước. Người ta còn viết thành sách, phân tích nhiều vấn đề, phê phán và khen ngợi, nhưng tất cả là tấm bình phong mà Nguyễn An Ninh khuấy động để che mắt nhà cầm quyền.

Thực chất là kế hoạch này tận dụng thời cơ để Xứ ủy Nam Kỳ phát động phong trào và phát triển lực lượng cách mạng một cách nhanh nhất và an toàn nhất.

Kế hoạch đó là:

- Nguyễn An Ninh công khai viết báo phát động phong trào nhân dân Đông Dương đòi quyền tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, mở hội nghị thu thập nguyện vọng của quần chúng đề đạt lên chính phủ mới. Chắc chắn nhà cầm quyền sẽ đàn áp phong trào. Nhưng chúng phải xin phép và phải được lệnh của Chánh phủ Mặt trận Bình dân mới dám đàn áp, tối thiểu phải mất hai tháng mới có lệnh. Nguyễn An Ninh tìm mọi cách thu hút nhà cầm quyền chú ý vào một Ủy ban Trung ương lâm thời vô tích sự và tìm cách kéo dài thời gian ra lệnh đàn áp phong trào.

- Trong khi đó Xứ ủy nhanh chóng lãnh đạo các cơ sở bên dưới lập các Ủy ban hành động ở xã. Vận động quần chúng tham gia các cuộc họp, dám đề đạt nguyện vọng, dám biểu tình, dám đấu tranh. Một xã bầu ra một ủy ban ít nhất là 3 người. Một là chủ tịch phải là người biết chỉ huy, hai là thư ký người có khả năng ghi chép tập hợp ý kiến của quần chúng, ba là cổ động viên là người biết vận động tuyên truyền cho quần chúng hiểu việc cần phải làm. Như vậy mỗi xã trong hai tháng có ít nhất 3 người lãnh đạo và hàng trăm quần chúng dám đấu tranh.

- Khi nhà cầm quyền chuẩn bị đàn áp thì Nguyễn An Ninh theo dõi kịp thời thông báo trên mặt báo công khai: Báo động “ Lệnh đàn áp đã ban hành” Tất cả rút vào bí mật để bảo toàn lực lượng.

Vĩnh viễn nằm lại ở Côn Đảo

Nguyễn An Ninh sau đó bị bắt 3 lần ở tù liên tiếp. Mãn hạn tù giam lần thứ tư. Năm 1939 khi ông đang bị quản thúc tại Mỹ Tho, bà Nguyễn Thị Minh Khai, đại diện cho Xứ ủy Nam Kỳ đến gặp ông, mời ông ra ứng cử Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ và mời ông gia nhập Đảng Cộng Sản. Cả hai việc ông đều từ chối.

Năm 1940 ông bị bắt lần cuối cùng , bị đày ra giam ở địa ngục Côn Đảo và hy sinh tại đó. Ông mãi mãi không bao giờ gặp lại người anh mà Nguyễn An Ninh đã từng giải thích với con trai đầu lòng như hồi ký của bà Nguyễn An Ninh đã ghi “ Con có hai bác, bác An Thái đã chết và bác Ái Quốc ở tận bên Nga xa lắm”.

Người thay ông gặp Nguyễn Ái Quốc là bà Nguyễn An Ninh, là người bạn đồng hành tiếp bước sự nghiệp của ông. Hơn mười năm, sau ngày ông hy sinh ở Côn Đảo, bà Ninh tập kết ra Bắc. Bà vừa đặt chân lên bến Sầm Sơn, ban tổ chức đón tiếp đồng bào Miền Nam tập kết báo cho bà biết: Bác Hồ đã điện cho Ban tổ chức, khi nào bà Nguyễn An Ninh ra phải đưa ngay ra Hà Nội để dùng cơm với Bác. Bà Ninh vào Phủ chủ tịch đứng lẫn vào số cán bộ phục vụ Bác, đều là bạn bè cũ, chưa kịp chào hỏi

hết mọi người thì đã thấy Bác với bộ quần áo vải nâu, chân bước thoăn thoắt lên bậc tam cấp. Hình ảnh nhanh nhẹ và giản dị đó khiến bà Ninh sững sờ đứng ngây người. Bác đã cất tiếng hỏi:

- Cô Ninh đâu ? Cô Ninh là ai đâu ?

- Thưa Bác, cháu đây.

Bác đến cầm hai vai, nhìn trìu mến rồi hôn lên trán bà Ninh. Bác còn đứng nhìn, ông Bùi Công Trừng liền nhắc:

- Thưa Bác, hồi năm 1945 cướp chính quyền không có tiền, chị Ninh phải đi xin tiền cho Đảng.

Theo gợi ý của Bác, tổ chức đã bố trí cho bà Ninh làm Trưởng đoàn đi dự một cuộc hội nghị các bà mẹ ở Genève để gặp một người rất thân với Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn An Ninh, đó là phu nhân của ông Vaillant Couturier là bà Marie Claude Vaillant Couturier lúc đó là Tổng thư ký Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ thế giới, bà là bạn đồng hành của ông và tiếp bước sự nghiệp giải phóng phụ nữ toàn thế giới từ sau ngày ông qua đời.

Những tưởng Nguyễn An Ninh mất đi là chấm hết. Nào ngờ Bà lại được vinh hạnh hơn Ông, gặp lại người anh năm xưa và được người ân cần giúp đỡ động viên suốt những năm khi người còn sanh tiền.

Tháng 8 năm 2013

NGUYỄN SƠN

clip_image081

Ảnh Bác Hồ đến thăm Trường Nhi Đồng

Bà Nguyễn An Ninh báo cáo với Bác

BÁO CHÍ TƯỞNG NIỆM 70 NĂM NGÀY

CHÍ SĨ NGUYỄN AN NINH HY SINH

(14/8/1943 – 14/8/2013)

Báo Sài Gòn Giải phóng - Tiếng nói của Đảng Bộ Thành phố Hồ Chí Minh số ra ngày 14 tháng 8 năm 2013 ở trang thời sự có đăng bài: “Những việc làm thầm lặng” kể lại việc Nguyễn An Ninh cùng Nguyễn Văn Trân đi bán Cù là suốt 3 năm để giao lực lượng Thanh Niên Cao Vọng cho Đảng Cộng sản.

Báo tuổi trẻ - Cơ quan của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh TP.HCM . Số 251/ 2013 (7327) ra ngày 11 tháng 8 năm 2013 có khởi đăng loạt bài nhan đề “ Nguyễn An Ninh – Tiếng chuông thức tỉnh muôn người” để tỏ lòng thành kính và tri ân một danh nhân huyền thoại của dân tộc

Tạp chí Hồn Việt - Trung Tâm Nghiên cứu Quốc học, Hội Nhà văn Việt Nam . Số 72, tháng 8- 2013 đã đăng những ý kiến đánh giá , bài viết về Nguyễn An Ninh:

clip_image083

Bút tích nguyên Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh

1.Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam :

Vài ý kiến về nhà yêu nước Nguyễn An Ninh

clip_image085Tôi đã nghe nhiều người ca tụng Nguyễn An Ninh. Năm 1938 tôi có dịp được sống gần ông ở Mỹ Tho. Từ năm 1939 tôi và ông đã bị đế quốc Pháp đày đọa ở nhà ngục Côn Đảo cho đến khi ông bị hy sinh.

Nguyễn An Ninh là nhà yêu nước vĩ đại. Là một trí thức tầm cỡ, nếu chịu khuất phục bọn đế quốc, chắc chắn ông sẽ giàu có và sống vương giả. Nhưng vì yêu nước , thương dân, ông đã đi vào quần chúng lao khổ vận động họ chống lại đế quốc và tay sai. Ông đã ra tờ báo “La Cloche

Di ảnh ông Nguyễn Văn Linh

Fêlée” (Tiếng chuông rè) để vạch mặt bọn xâm lược và áp bức bóc lột nhân dân Việt Nam. Ông đã bí mật thành lập một tổ chức cách mạng yêu nước Đảng Thanh niên Cao vọng để chống lại bọn xâm lược và tay sai. Là một nhà trí thức, thế mà ông lại đi bán dầu cù là ở các bến xe, ở các phố phường Sài Gòn với ý định cổ động đồng bào chống lại bọn đã làm khổ mình.

Ở trong tù ông Nguyễn An Ninh luôn luôn đoàn kết với chúng tôi, những người cộng sản, để chống lại bọn cai ngục dã man. Khi ông lâm bệnh mất đi, chúng tôi đã cử lễ truy điệu ông rất long trọng và thương tiếc Nhà Chí Sĩ Nguyễn An Ninh, Nhà yêu nước vĩ đại.

Ngày 09 – 8 – 1993

Ký tên

Nguyễn Văn Linh

2. Phạm Văn Đồng, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam:

clip_image087Tôi có cơ hội gặp và sống với Nguyễn An Ninh trong nhiều tháng ở Khám Lớn Sài Gòn trong những năm 1929-1930. Từ đó tôi biết rõ Nguyễn An Ninh và tôi khẳng định rằng Nguyễn An Ninh là một nhà yêu nước, một chiến sĩ cách mạng kiên cường, kiên quyết đấu tranh vì Tổ quốc và dân tộc, cho đến hơi thở cuối cùng.

Nguyễn An Ninh có tầm vóc một nhà lãnh đạo một cuộc cách mạng, cho nên chúng ta phải ghi nhớ những cống hiến quan trọng của một nhân vật có tầm vóc lịch sử.

Còn về những kỷ niệm trong lúc còn Di ảnh ông Phạm Văn Đồng sống với nhau nhiều tháng trong tù, thì tôi phải nói rằng Nguyễn An Ninh là một chiến sĩ cách mạng giàu lòng yêu nước và ý chí đấu tranh. Chúng tôi đã trải qua nhiều thời gian để thảo luận và tranh luận rất là gay gắt về những vấn đề cực kỳ quan trọng, những quan điểm về học thuyết Mác – Lênin về đấu tranh cách mạng ở nước ta, về tổ chức cách mạng, về vai trò của quần chúng nhân dân.

Chúng tôi tất nhiên có những ý kiến khác nhau nhưng càng thảo luận thì càng đi đến nhất trí, càng hiểu biết nhau, càng có tình cảm và lòng kính trọng lẫn nhau.

Đồng thời tôi phải nói thêm rằng, ở tù cùng chúng tôi tất nhiên có những người đồng chí, những người phụ tá trong tổ chức của Nguyễn An Ninh, thì ở đây tôi thấy rõ cái quan hệ của Nguyễn An Ninh với những người phụ tá là những người bạn chiến đấu của mình. Thái độ đó là những tình cảm, sự ưu ái rất là thân tình và trung thực. Và vì vậy cho nên những người bạn chiến đấu của Nguyễn An Ninh đối với họ Nguyễn là một lòng yêu mến và khâm phục.

Còn một điều vừa quan trọng vừa thú vị tôi nói ở đây rằng đúng là trên báo chí của nước ta trong các thời chủ nghĩa thực dân Pháp, không khi nào có một tờ báo dám gọi Toàn quyền Đông Dương là “thằng” như Nguyễn An Ninh đã làm tờ báo tiếng Pháp của mình, gọi Pasquier tên toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ là “thằng Pasquier”.

30-7-1993

Ký tên

Phạm Văn Đồng

clip_image089

Bài viết và chữ ký của nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng

3. Trần Văn Giàu, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ:

NGƯỜI ĐÁNH THỨC MỘT THẾ HỆ THANH NIÊN CÒN MÊ NGỦ (1)

clip_image091

Năm tôi 14 - 15 tuổi (1925-1926) học trung học ở trường Chasseloup Laubat, tôi thường đọc báo La Cloche Fêlée (Chuông rè) và báo L’Annam ( Nước Nam) là hai tờ báo tiếng Pháp do anh Ninh sáng lập, trong hai báo đó, tôi được đọc nhiều bài lấy ở báo L’Humanité và báo Le Paria xuất bản ở Pháp. Báo Chuông Rè và báo Nước Nam luôn có bài ủng hộ các cuộc bãi công của công nhân Ba Son, bãi khóa của học sinh Chasseloup Laubat và các cuộc biểu tình quần chúng ở bến Nhà Rồng.

Đặc biệt là ngày 21-3-1926, lần đầu tiên tôi

Di ảnh Ông Trần Văn Giàu được nghe Nguyễn An Ninh diễn thuyết tại

cuộc mít tinh ở đường Lanzarotte. Người anh Ninh, tóc chấm vai, mắt sáng như sao, tiếng trong như chuông, lâu nay tôi biết anh bén nhọn trên cột báo, hôm đó lại biết anh hùng hồn ở diễn đàn, không chút sợ Tây tà, đậu cử nhân Luật ở Paris về Sài Gòn không làm nghề luật sư nhiều danh lợi mà dùng câu văn, lời nói làm chiêng làm trống cảnh tỉnh, tập hợp đồng bào. Nội dung diễn thuyết của anh hôm đó hay lắm, nhưng giọng nói và tấm lòng của anh Ninh đã cảm hóa tôi còn hơn nội dung anh nói.

Đã gần 80 năm trôi qua, có lẽ tôi là nhân chứng duy nhất còn lại của cuộc mít tinh nổi tiếng ở đường Lanzarotte. Anh Ninh là diễn giả hay nhất, được quần chúng cổ võ nồng nhiệt nhất. Điều lạ là sau cuộc mít tinh đó cả ban tổ chức và các diễn giả không ai bị tù, chỉ một mình anh Ninh bị kêu án 18 tháng tù. Điều đó chứng tỏ bọn thực dân đã để ý theo dõi anh từ lâu và đây là dịp tốt nhất để chúng lấy cớ bắt anh, người có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng lúc đó. Ảnh hưởng của anh lớn đến nỗi khi nghe tin anh bị bắt lần đầu tiên, đông đảo đồng bào các giới đều lên tiếng mạnh mẽ đòi thả anh: học sinh bãi khóa, thợ thuyền bãi công, bạn hàng bãi chợ, nông dân các nơi ùn ùn kéo lên chật trước Khám Lớn Sài Gòn.

Nguyễn An Ninh sau năm lần bị thực dân Pháp bắt giam và kết án tù, cuối cùng đã hy sinh ở địa ngục Côn Đảo vào tuổi 43. Cuộc đời anh quá ngắn ngủi, nhưng anh đã để lại hậu thế một tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí bất khuất quật cường với kẻ

thù, tình nghĩa gắn bó, gần gũi với dân, lòng nhân hậu bao dung với bạn bè, đồng chí, gia đình. Một thuở, Nguyễn An Ninh là thần tượng của đồng bào lục tỉnh, của học sinh, thanh niên chúng tôi.

* * *

Những ngày chập chững vào con đường cách mạng ở tuổi 14 – 15, tâm trí tôi lúc ấy như một tờ giấy trắng mà người đầu tiên viết lên đó những dòng chữ về yêu nước, về lý tưởng, về hoài bão, không ai khác hơn là Nguyễn An Ninh. Tôi nhớ mãi những hình ảnh trong bài diễn thuyết lý tưởng thanh niên mà lúc đó anh Ninh gọi là Cao vọng của thanh niên An Nam.

Đám học sinh trung học chúng tôi hồi ấy đi học tại Sài Gòn ở nội trú, chủ nhật ra ngoài đi dạo phố, mặc âu phục ka ki trắng, thắt cà vạt, đi giày da kêu cộp cộp, có người không cận thị cũng mang kính trắng để ra vẻ trí thức. Nguyễn An Ninh trong bài Cao vọng của thanh niên An Nam đã có lời phê phán: “Các bạn thử nhìn, thử quan sát đám thanh niên đầy tham vọng đang thả rểu ngoài đường, mặc đồ tây, thắt cà vạt, tướng đi như vịt đực…”.

Lời phê đó hay lắm, đúng lắm, mà thấm lắm. Anh Ninh còn viết: “Tôi nghịch với cái thói ưa làm quan, vì thói ấy nó giết tinh thần dân tộc của ta”. Anh viết: “Tôi có lòng ước mơ rằng Trời sẽ giúp cho tôi có đủ sức và dư thì giờ để viết sách giúp đồng bào hiểu rõ trí thức của phương Đông và phương Tây”. Vì theo anh Ninh, trong lúc đồng bào còn u tối mà người nào không truyền lại cái hiểu biết thì “tội của người ấy nặng bằng giết cả giống nòi mình”.

Vì vậy anh Ninh là người Việt Nam đầu tiên ở Nam Kỳ đã hô hào thanh niên hãy thoát ra khỏi cái hẹp hòi của Khổng giáo, thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình, đi thật xa để học hỏi và trang bị cho mình một lý tưởng cao cả, không có lý tưởng cao cả thì không làm nên việc lớn. Thanh niên phải biết ước mơ, mà theo anh Ninh, phải là ước mơ siêu nhân, đất nước ta cần có nhiều vĩ nhân để giải thoát giống nòi.

Bài diễn thuyết năm 1923 Cao vọng của thanh niên An Nam của Nguyễn An Ninh đã mở ra cái hướng cho thanh niên thời đó, trở thành một trào lưu mạnh mẽ lan tràn hết sức mau khắp Nam Bộ giữa những năm 20 của thế kỷ vừa qua.

Anh Ninh còn có một tác phẩm khá nổi tiếng: Nước Pháp ở Đông Dương xuất bản ở Paris tháng 4-1925 và sau đó đăng lại toàn văn trên bốn kỳ báo Chuông Rè khi báo này tục bản tháng 11-1925. Anh Ninh mở đầu tập sách Nước Pháp ở Đông Dương bằng câu: “Hẳn không phải để làm một điều nhân nghĩa mà nước Pháp đã vượt qua khoảng cách 14.000 cây số, để sang Đông Dương”

Anh còn viết: “ Nước Pháp là nước ban bố tự do và quyền công dân Pháp cho những người mới hôm qua là nô lệ, thì chính nước Pháp

đó ở Đông Dương lại đặt ách nô lệ lên cổ của một dân tộc tự do từng có nền văn hóa trong lúc người Pháp còn lạc hậu ở trong những làng xóm quanh ao hồ”.

Anh đã kể lại các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp thất bại trong 70 năm đô hộ của chúng, để đi đến kết luận: “Chống trả một tổ chức đàn áp hiện đại, ta phải có một tổ chức kháng cự hiện đại. Khi một dân tộc đã bị dồn đến tình thế không còn sự lựa chọn nào khác hơn là chết hoặc nô lệ, thì chống trả lại là thể hiện tính hùng cường. Người ta chỉ lên án bạo lực khi nó chưa cần thiết, nhưng trong trường hợp là con đường duy nhất thì ai cũng phải chấp nhận nó”.

Lịch sử tư tưởng Việt Nam thời kỳ hiện đại chép tên tuổi Nguyễn An Ninh là một trong số những người đầu tiên, đã tuyên truyền cổ động có bề sâu, có bề rộng, có hệ thống những tư tưởng lớn của Đại cách mạng Pháp 1789-1792. Anh cũng là người đầu tiên cho đăng trên tờ Chuông Rè của anh toàn văn “Tuyên ngôn Cộng sản” của Mác-Ăngghen.

Cho đến ngày nhắm mắt, anh Ninh vẫn chưa phải là đảng viên cộng sản. Nhưng những người cộng sản hoạt động cùng thời với anh, kể cả Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ và tôi đều coi anh như một người cộng sản – một người cộng sản ngoài Đảng. Sau đại hội Tours năm 1920 với sự ra đời của Đảng Cộng sản Pháp, anh Ninh bỏ ý định làm luận án Tiến sĩ sau khi đã đậu Cử nhân Luật, tham gia các hoạt động chính trị trong nhóm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền. Những năm đó anh Ninh cũng kết thân với nhiều lãnh tụ Đảng Cộng sản Pháp, nhiều nhà báo, nhà văn cộng sản Pháp.

Từ cuối những năm 20 trở đi, trên chính trường Nam Bộ, Nguyễn An ninh đã như là một người Mácxít Lêninnít hoạt động quần chúng, hoạt động trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng.

Trong các tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn An Ninh, có thể nói sách Phê bình Phật giáo của anh có chiều sâu lý luận tư tưởng hơn nhiều so với các luận văn cùng đề tài của Hải Triều và của Hồ Nam (Trần Văn Giàu). Ở tác phẩm lớn này, Nguyễn An Ninh tỏ ra là một nhà triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Quyển Phê bình Phật giáo kết thúc bằng một đoạn dài nổi tiếng trích ở tác phẩm Phê bình triết học pháp quyền của Hêghen nói về tôn giáo, tác phẩm này của Các Mác mà anh Ninh cố ý không nêu tên ở thời điểm đó. Trước khi viết cuốn Phê bình Phật giáo, Nguyễn An Ninh cũng đã có tác phẩm Tôn giáo trong đó anh là một trong số những người đầu tiên đã bàn luận, phân tích nghiêm túc vấn đề đạo giáo ở Nam Bộ.

Đối với Khổng giáo, có lẽ Nguyễn An Ninh là nhà Tây học đầu tiên đã đấm Khổng giáo mấy quả đấm kinh hồn. Ninh không đứng về thuần lý mà phê phán như nhiều người khác, mà đứng về trang bị cho

thanh niên một lý tưởng, nhu cầu phủ định các trật tự ngày nay nhằm mục tiêu giải phóng đất nước. Chỗ đứng ấy rất mạnh.

Vẫn trong bài diễn thuyết Cao vọng của thanh niên An Nam, Nguyễn An Ninh đã có câu nói nổi tiếng, càng nổi tiếng vì nó được thốt ra từ suy nghĩ của một chàng trai 23 tuổi: “Dân tộc nào bị thống trị bởi nền văn hóa ngoại bang thì dân tộc ấy không thể có độc lập thật sự. Văn hóa là tâm hồn của một dân tộc… Một dân tộc có một nền văn hóa cao thượng thì mới nắm trong tay những đặc quyền mà những dân tộc với một nền văn hóa thấp kém hơn không thể có được. Như vậy một dân tộc muốn sống, muốn độc lập, muốn rạng danh trong nhân loại, cần phải có một nền văn hóa của riêng mình”.

Nguyễn An Ninh cho rằng cái văn hóa mà Trung Quốc và Khổng giáo đem lại cho chúng ta, xét kỹ là kém cỏi lắm. Thời nay văn hóa Tây phương phát triển, lan khắp thế giới, ta đây ở Việt Nam không thể không tiếp thu, tiếp thu nó có lợi cho ta. Nhưng mà tư tưởng Khổng giáo làm cho ta khó thu nhận văn hóa Tây phương, khó tiến bộ, khó tổng hợp hai nền văn hóa Tây – Đông để mà tạo cho mình một nền văn hóa độc lập cao thượng. Không phải Nguyễn An Ninh cho rằng tư tưởng Khổng giáo chẳng có giá trị gì, anh nhận xét rằng Khổng Tử vẫn là một nhà tư tưởng, một nhà đạo đức lớn của thế giới. Anh viết: “Tư tưởng Khổng giáo nếu được hiểu đúng thì có thể nâng đỡ con người lên một quan niệm quảng đại và nhân từ về đời sống. Mấu chốt của học thuyết Khổng Tử là ở nơi chính bản thân mỗi người tu dưỡng lấy mình”.

Nguyễn An Ninh là một nhà báo nổi tiếng, đồng thời là nhà lý luận, và cả là nhà thực hành. Trong đấu tranh chính trị, anh Ninh là một chính khách, một nhà chính trị hoạt động, một con người của quần chúng, anh có nhiều sáng kiến theo sát đường lối của Đảng, sát chủ nghĩa Mác – Lênin.

Năm 1936, khi Mặt trận Bình dân thắng cử ở Pháp thì anh Ninh là người có sáng kiến tổ chức Đông Dương Đại hội, sáng kiến đó đã được Đảng chấp nhận và từ đó phong trào dân tộc dân chủ đã lên cao trào trước nay chưa từng thấy. Sau khi Đông Dương Đại hội bị thực dân Pháp cấm thì phe trốtkít trở mặt. Bây giờ đọc lại cuộc bút chiến kéo dài giữa Nguyễn An Ninh và Tạ Thu Thâu (thủ lĩnh Trốtkít) trên báo La Lutte (Tranh đấu) năm 1937, càng thấy Ninh sâu sắc, vững vàng như thế nào khi anh khẳng định đường lối Mặt trận dân tộc dân chủ của Đảng, bác bỏ chủ trương quá khích “mặt trận vô sản” của Tạ Thu Thâu.

* * *

Tôi quen anh Ninh năm 1933, lúc tôi ở Nga mới về phụ trách Xứ ủy Nam Kỳ. Sang năm 1935 tôi có nhiều dịp làm việc với anh Hà Huy

Tập và anh Ninh tại ngôi nhà anh Ninh có khu vườn xoài rộng mênh mong ở Trung Chánh – Hóc Môn. Nhân đây tôi muốn góp phần làm sáng tỏ một vài vấn đề liên quan đến anh Ninh mà cho đến nay vẫn còn một số hiểu biết thiếu chính xác.

Về vấn đề “Đảng Thanh niên Cao vọng”: Theo tôi, từ trước tới nay chưa có một tài liệu nào được công bố của Đảng Thanh niên Cao vọng. Còn tổ chức “Thanh niên Cao vọng” mà nhiều người thời đó quen gọi là “ Hội kín Nguyễn An ninh” là do Nguyễn An Ninh và Mai Văn Ngọc sáng lập, thật sự chính là một tổ chức quần chúng yêu nước do Ninh tập hợp theo từng cụm địa phương, không có hệ thống tổ chức huyện, tỉnh, trung ương, không có lãnh tụ. Anh Ninh giải thích: lực lượng quần chúng này vẫn sống tại gia đình, khi nào anh Ninh cần huy động thì số quần chúng này tham gia. Lực lượng này đã ra mắt lần đầu tiên vào năm 1927 trong buổi lễ cúng giáp năm ngày mất cụ Phan Châu Trinh tại nghĩa địa Tân Sơn Nhất vào ngày 14-3-1927. Lực lượng quần chúng này còn được anh Ninh huy động vào những năm 1933, 1935, 1936 khi anh Ninh tổ chức mít tinh vận động bầu cử Hội đồng Thành phố và trong phong trào Đông Dương Đại hội.

Về hai bức thư của anh Ninh mà bọn “Lập hiến” cho công bố trên báo chí của chúng: Năm 1926 vụ anh Ninh bị bắt lần đầu tiên đã gây chấn động cả Nam Kỳ, phong trào đòi thả Nguyễn An Ninh nổ ra rầm rộ. “Đảng Thanh niên An Nam” (Jeune Annam) của Trần Huy Liệu dự định tổ chức tổng bãi công nếu nhà cầm quyền không thả Nguyễn An Ninh, còn bọn thực dân thì chuẩn bị đàn áp nếu xảy ra tổng bãi công. Anh Ninh rất lo lắng cho phong trào vừa mới nhen nhúm từ khi anh đón cụ Phan ở bên Pháp về. Khi anh em vào thăm anh đều nhắn nhủ bên ngoài không được vì Nguyễn An Ninh mà manh động. Trong Khám Lớn Sài Gòn, anh nghĩ cách viết thư cho Thống đốc Nam Kỳ và Tổng Biện lý để xin hưởng án treo. Trong nội dung hai bức thư “giả dại để qua ải”, anh hứa sẽ về quê sống ẩn dật như ba tháng trước đó anh đã làm. Theo chị Ninh kể lại, thật ra thì trong ba tháng trước khi bị bắt giam, anh không có mặt ở Sài Gòn: ngày thì anh đi vận động quần chúng cho tổ chức Thanh niên Cao vọng, ban đêm anh thức để viết báo và nghĩ cách đăng Tuyên ngôn Cộng sản của Mác – Ăngghen trên báo Chuông Rè. Anh tính viết thư như vậy cho bọn cầm quyền để nó thả ra, để nó không đàn áp phong trào.

Nhưng anh đã tính sai nước cờ, điều mà anh Ninh không ngờ là bọn thực dân đã lợi dụng hai bức thư của anh để đánh gục anh. Chúng giật dây cho bọn “Lập hiến” công bố hai bức thư kèm theo lời bình rằng Nguyễn An Ninh đã đầu hàng và từ bỏ cách mạng. Trong hồi ký

của Trần Huy Liệu cũng có rút ra bài học thất bại cho “Đảng Jeune Annam” và tôi nghĩ đó cũng là bài học cho cả anh Ninh.

Đọc những lời bình luận xuyên tạc của bọn “Lập hiến”, lúc đó bản thân tôi vẫn tin tưởng ở anh Ninh, tin rằng anh Ninh nhất định không đầu hàng. Nếu anh Ninh có lúc nào đó xuống tinh thần thì theo tôi không phải là lúc viết hai bức thư ấy. Vì sự thật là sau khi ra tù, anh vẫn tiếp tục hoạt động, mà còn hoạt động hăng nữa là khác, anh không có một ngày nghĩ ngơi. Bốn lần vào tù tiếp theo đã chứng minh điều đó. Có chăng anh thối chí là vào năm 1937, sau đợt bút chiến nảy lửa với Tạ Thu Thâu, chị Ninh kể lại là anh đã rủ chị cùng anh sang sống ở Thụy Sĩ để anh viết sách, nhưng chị không nghe.

Điều tôi muốn nói sau cùng là nhân cách Nguyễn An Ninh. Anh là một nhà Tây học, một trí thức lớn, một học giả uyên thâm, đã đi nhiều nước, giao du với nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới. Anh thừa sức có một cuộc sống nhung lụa nếu anh muốn, nhưng anh đã không màng miếng đỉnh chung. Từ Paris trở về, anh đã gắn liền cuộc đời mình với vận mạng của dân tộc, vì vậy mà mọi tầng lớp nhân dân yêu kính anh. Con người giàu nhiệt huyết và năng động đó cũng rất lãng mạn, nhiều suy tư, thích làm thơ, sống lạc quan dù nhiều lần phải vào tù ra khám, lắm khi phải lặn lội nắng mưa ngủ dình ngủ chợ, tự bán báo, bán dầu cù là để đi vào quần chúng. Hơn hai mươi năm anh hiến dâng đời mình cho Tổ quốc thì quá nửa sống trong lao tù thực dân. Con người đó dữ dội với bọn thống trị Tây tà, khiến chúng mất ăn mất ngủ, đấu tranh hết sức kiên cường dám tuyệt thực dài ngày đến cận kề cái chết. Anh đã kiên quyết từ chối không khoan nhượng đầu hàng khi bọn phát xít Nhật cho người ra Côn Đảo thuyết phục, nếu anh chịu hợp tác lập chính phủ thân Nhật thì chúng sẽ đưa anh về đất liên chữa trị, trong lúc bệnh tình của anh đã bước sang giai đoạn trầm trọng.

Điều tôi muốn nói ở đây là nhân cách của anh trong quan hệ với bạn bè đồng chí, với gia đình vợ con, anh khiêm nhường, hiền từ và nhân hậu. Anh san sẻ bát cơm manh áo, dốc cạn đồng xu cuối cùng cho người khốn khổ hơn anh. Anh nhường từng lon nước, chỗ nằm cho bạn tù. Anh đem cả tình thương, tri thức dìu dắt cho những ai còn lầm lỡ, bất hạnh kém may mắn hơn anh. Ai đã gặp anh một lần đều yêu kính anh, một nhân cách lớn lắm, một tấm gương sáng ngời cho thời đại này. Anh là một con người hầu như không có cá nhân chủ nghĩa, không có toan tính cho mình, lúc nào cũng sẳn sàng hy sinh cái riêng vì nước vì dân, vì anh em bè bạn, vì gia đình vợ con. Tự thân cuộc đời anh đã đẹp, không cần chúng ta phải tô điểm gì thêm. Một con người như vậy không dễ có đâu, bình dị nhưng vĩ đại lắm.

Ngày 15-9-2001

(1)Bài trích trong sách Nguyễn An Ninh-tác phẩm(Trung tâm Nghiên cứu Quốc học 2009).Đầu đề do tạp chí Hồn Việt đặt

NGUYỄN AN NINH

NHÀ CÁCH MẠNG CHÂN CHÍNH

clip_image093 clip_image095

Di ảnh Ông Nguyễn Ái Quốc Di ảnh Ông Nguyễn An Ninh

clip_image097

Di ảnh Ông Nguyễn Thế Tuyền

Ngày 14-8 năm nay là đúng 70 năm ngày mất của ba tôi (14/8/1943 – 14/8/2013)

Cũng vào những ngày tháng 8 năm 1945, tại Chợ Đệm, Xứ ủy Nam Kỳ chủ trì mấy buổi họp để bàn về khởi nghĩa mà chưa ngã ngũ, trong khi phái thân Nhật đã sớm thành lập “Mặt trận Quốc gia Thống nhất” lôi kéo hàng vạn quần chúng. Quần chúng sẽ tin vào ai trong giai đoạn nước sôi lửa bỏng này. Ủy ban Khởi nghĩa quyết định làm lễ ra mắt “ Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh” (Việt Minh) với công chúng vào ngày 20 tháng 8 chứ không thể chậm thêm ngày nào. Người thuyết trình về tổ chức Việt Minh do Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Trần Văn Giàu lúc đó là Chủ tịch Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ đảm trách. Đó cũng là lần đầu tiên chú Giàu ra mắt công chúng Sài Gòn. Chú Giàu kể: Quần chúng chưa biết Trần Văn Giàu là ai, nhưng quần chúng biết rất rõ nhà yêu nước Nguyễn An Ninh. Ủy ban Khởi nghĩa quyết đinh lấy ngày giỗ lần thứ hai của Nguyễn An Ninh tổ chức mít tinh tại rạp Nguyễn Văn Hảo (Sài Gòn) để làm lễ ra mắt của Việt Minh, phát động học tập tấm gương hy sinh trọn đời vì độc lập tự do cho Tổ quốc của nhà yêu nước Nguyễn An Ninh. Quần chúng dự mít tinh đông nghẹt, trong buổi lễ đó, đồng bào đã nhiệt liệt hoan hô khi diễn giả tôn vinh Nguyễn An Ninh là người Thanh niên Tiền phong số một của Nam Kỳ, đồng bào còn hô to “Việt Minh vạn tuế”. Lòng dân đã ngả về Việt Minh, và chỉ bốn ngày sau, đêm 24 tháng 8 toàn bộ chính quyền ở Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định đã về tay nhân dân.

70 năm rồi, cho đến hôm nay nếu còn có ai đó nói điều gì sai lệch về Nguyễn An Ninh thì cũng chỉ là thiểu số. Chú Hà Huy Giáp, nguyên phó ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương và là Viện trưởng Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh. Chú là người bạn rất thân với ba má tôi từ năm 1926, là một trong những người đầu tiên của tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Nam Kỳ, là người cùng Châu Văn Liêm mở Đại hội thành lập An Nam Cộng sản Đảng – tổ chức cộng sản đầu tiên của đất Nam Kỳ, là người làm việc kề cận nhiều năm với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Má tôi bảo, chú là một trong số những người luôn bảo vệ Nguyễn An Ninh trong suốt 20 năm ở miền Bắc. Khi má tôi còn sống, chú thường an ủi má tôi: “Im lặng không có nghĩa là đồng tình, bây giờ chưa phải lúc để nói, khi nào cần tôi sẽ nói. Người ta chưa hiểu Nguyễn An Ninh vì người ta chưa đọc những gì Nguyễn An Ninh viết và chưa biết những gì Nguyễn An Ninh làm”.

Chỉ tiếc má tôi không còn sống để thấy những điều mà má tôi day dứt suốt 20 năm bây giờ đã được toại nguyện. Đó là nghĩa tình đối với ba tôi của các cô chú hoạt động cùng thời, của những người ái mộ Nguyễn An Ninh. Nhân ngày giỗ ba tôi lần thứ 70, cho phép tôi nhắc lại những

nghĩa cử đó, và nhân đây tôi cũng muốn viết rõ vài việc góp thêm tư liệu cho những người muốn nghiên cứu về Nguyễn An Ninh.

* * *

Ngày miền Nam thống nhất, chú Hà Huy Giáp nói với má tôi chú sẽ xin nghỉ hưu, về miền Nam để có thời giờ viết lịch sử, để mọi chuyện được rõ ràng. Ngày giỗ hàng năm của ba tôi có mặt đông đủ các cô chú hoạt động cùng thời với Nguyễn An Ninh. Tôi còn nhớ rõ lần giỗ năm 1983, lần giỗ thứ 40 cũng là lần giỗ cuối cùng má tôi còn sống ở cõi đời này. Cũng như suốt gần 30 năm trôi qua, lần nào má tôi cũng nhắc:

- Tôi đến tuổi gần đất xa trời, các chú cũng già hết rồi, các chú chết thì ai sẽ làm sáng tỏ cuộc đời và sự nghiệp của anh Ninh đây?

Các cô chú im lặng, chú Giàu lên tiếng trước:

- Chúng tôi biết anh nhiều, nhưng hiểu cho hết những suy tư của anh, biết cho hết những việc của anh làm thì còn quá ít. Các cháu phải gấp rút sưu tập thật nhiều về ba, làm chậm là bất hiếu. Trần Văn Giàu hiện nay không đủ sức, người đủ sức chủ trì việc làm sáng tỏ Nguyễn An Ninh phải là Hà Huy Giáp, vì anh Giáp đang là Phó ban nghiên cứu lịch sử Đảng và là Viện trưởng Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, tiếp xúc rất nhiều văn kiện và tư liệu.

Chú Hà Huy Giáp nhận lời, hứa sẽ làm vui lòng má tôi, chỉ tiếc chú quá ít thời gian, Trung ương chưa đồng ý cho chú nghỉ hưu. Cuối năm đó má tôi đột ngột qua đời, để lại niềm ân hận cho các cô chú. Phải đến giữa năm 1987 chú Giáp mới được nghỉ hưu. Chỉ ba tháng sau, ngày 15 tháng 9 năm 1987 chú chủ trì cuộc hội thảo khoa học đầu tiên về Nguyễn An Ninh tại Bảo tàng TP. Hồ Chí minh. Cuộc hội thảo đầu tiên đó cũng là cuộc hội thảo nhớ đời của chúng tôi. Vì từ hơn 40 năm qua, nếu có đánh giá nào đó về nhân vật lịch sử Nguyễn An Ninh thì mới có trên văn kiện Đảng, chưa có tiếng nói ngược lại. Trong cuộc hội thảo đầu tiên đó, một vị phó ban nghiên cứu lịch sử Đảng của TP. Hồ Chí Minh cũng nêu quan điểm giống như văn kiện của Đảng: “ Nguyễn An Ninh là nhà yêu nước được đồng bào Nam Bộ tôn vinh, nhưng ông có quan điểm quốc gia cải lương vì thế không nên bôi đỏ ông”.

Hầu hết các cô chú có mặt phát biểu đều khẳng định Nguyễn An Ninh là nhà cách mạng chân chính, không phải hạng cách mạng nửa vời. Còn anh Dương Đình Thảo lúc đó là Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy, Trưởng ban Tuyên huấn Thành ủy TP.HCM phát biểu nhiều ý, nhưng tôi nhớ nhất một ý:

- Không ai bôi đỏ Nguyễn An Ninh, nhưng không cho phép ai bôi đen Nguyễn An Ninh.

Còn chú Giàu lúc đó chưa được phép xuất hiện trên báo, trên đài, chú cũng phát biểu một ý ngắn gọn trong buổi hội thảo:

-Tự thân Nguyễn An Ninh đã đẹp rồi, đâu cần phải tô điểm gì thêm.

Một năm sau chú Hà Huy Giáp hoàn thành một quyển sách có nhan đề: Sự tiến hóa liên tục của Nguyễn An Ninh, một lãnh tụ cách mạng hùng biện. Cái tên sách đã làm một vị lãnh đạo thành phố phật ý, yêu cầu bỏ chữ cách mạng, chỉ nên để là lãnh tụ quần chúng thôi. Nhưng chú Giáp vẫn kiên quyết:

- Nguyễn An Ninh không là cách mạng thì chẳng có ai là cách mạng cả.

Cuốn sách được anh Tân Đức, Giám đốc Nhà xuất bản Tổng Hợp TP HCM, cho ra đời dù có ý kiến cản ngăn. Chú Giáp đã giữ trọn lời hứa với má tôi, còn chúng tôi nợ chú một món nợ ân tình

.clip_image099

Di ảnh Ông Hà Huy Giáp

Thời kỳ đổi mới tiếp theo, ba cuộc hội thảo nữa lại tiếp nối. Nhân 50 năm ngày mất của ba tôi, chú Giàu viết một bài khá dài đăng trên báo Nhân Dân, rồi chú Nguyễn Văn Linh, chú Phạm Văn Đồng có bài trên báo Sài Gòn Giải phóng, chỉ tiếc chú Phạm Hùng không còn, rồi các cô chú, các anh chị lần lượt viết tiếp, anh Tân Đức lại cho ra đời quyển sách thứ hai. Thế hệ cùng thời với ba tôi đã lên tiếng.

Còn thế hệ sau đã được học tập kinh qua nhiều trường lớp, nên có những suy nghĩ nào đó về Nguyễn An Ninh cũng dễ hiểu thôi, vì nào đã có ai đính chính những điều sai trong văn kiện, trong sách vở, còn người học thì phải nói theo sách vở.

Má tôi kể rằng, ngày chú Trần Văn Giàu mới ở Nga về (1933) thường đến nhà ba tôi để đọc sách, chú rất thuộc sách và nói đúng theo

sách, chú tranh luận với ba tôi rất gay gắt, sau đó dần dần chú với ba tôi hết tranh cãi mà bàn luận rất lâu. Lúc chú Hà Huy Tập mới về Hóc Môn cũng vậy (1936), tranh luận rất nhiều về đấu tranh với khuynh hướng cực tả của Trốtkít, về phương pháp vận động trí thức, về bản chất các giai cấp trong thực tế xã hội của Việt Nam.

Trong văn kiện Đảng năm 1932, theo chú thích của BT là bí danh của chú Hà Huy Tập đã viết “Tư liệu bổ sung về nguồn gốc các tổ chức cộng sản ở Đông Dương” (trang 378) như sau:

“…Ngày 17-3-1927 ở Hóc Môn tỉnh Gia Định (Nam Kỳ) có cuộc hội nghị để thành lập “Đảng Cao Vọng”. Tôi được Mimin [chú thích của BT là Nguyễn Khánh Toàn], một trong sáu người thành lập Đảng Cao Vọng quốc gia chủ nghĩa này, mời làm một trong những thành viên sáng lập đảng này vì ông Mimin nghĩ rằng tôi là người quốc gia chủ nghĩa và chưa có chân trong đảng nào, Mimin đã lầm to…”

Hơn một trang văn kiện nói về cuộc họp này, những tranh luận và phân tích về chính cương sách lược của Đảng Cao Vọng và mối quan hệ với các tổ chức khác.

Theo má tôi kể, ba tôi có giải thích: Thanh niên Cao vọng không phải là đảng, chỉ là một tổ chức quần chúng yêu nước được ba tôi tuyển chọn dìu dắt để khi cách mạng cần thì có sẵn lực lượng quần chúng trung kiên. Số quần chúng này Nguyễn An Ninh sẽ giao lại khi nào Nguyễn Ái Quốc về thành lập một chính đảng. Vì vậy mà tổ chức Thanh niên Cao vọng không có chính cương sách lược, không có hệ thống tổ chức cấp trung ương, cấp tỉnh,cũng không có tổ chức hội nghị, không có ngày thành lập gì cả.

Vậy nhân vật Mimin Nguyễn Khánh Toàn là ai ? Chú là người của đảng Jeune Annam cùng nhóm với chú Trần Huy Liệu, các chú quen thân với ba má tôi từ năm 1925, thường lên nhà ba má tôi ở Hóc Môn chơi, có khi cả ngày, trải chiếu ngoài vườn nằm đọc sách, và má tôi thường đãi cơm. Nhưng ba tôi dặn: “Các chú là những thanh niên còn rất trẻ, đầy nhiệt huyết, dám nói dám làm, nhưng cũng rất hiếu thắng, thích làm chính trị, thích được ca ngợi, không thích hợp cho công việc bí mật, phải hết sức thận trọng và đừng trao đổi gì về công việc của tôi cho các chú nghe”.

Đến giữa năm 1926 các chú lập Đảng Jeune Annam công khai giữa Sài Gòn, bọn mật thám trà trộn vào rất nhiều. Vì vậy mà ba tôi không dám mời các chú Jeune Annam vào Thanh niên Cao vọng dù Thanh niên Cao vọng ra đời từ cuối năm 1924.

Trong số Jeune Annam có chú Nguyễn Khánh Toàn và Bùi Công Trừng là hai người có trình độ viết tốt, nên ba tôi mời hai chú cộng tác làm báo công khai cùng ba tôi. Chú Bùi Công Trừng có ý định sang Pháp, chỉ có chú Nguyễn Khánh Toàn là nhận lời , chú làm biên tập cho

báo La Cloche Fêlée và L’Annam cho đến ngày báo ngừng hoạt động, sau đó ba tôi và bác Truyền thu xếp cho chú sang Pháp. Sự thật là chú chưa bao giờ tham gia tổ chức Thanh niên Cao vọng, lại càng không phải là người sáng lập.

Nhân đây tôi cũng xin nói rõ sự ra đời của tổ chức Thanh niên Cao vọng. Vào giữa năm 1924 báo La Cloche Fêlée không còn sống nổi, phải tự đình bản. Ba tôi ngày đêm lặn lội khắp vùng Hóc Môn, Bà Điểm, Đức Hòa, Đức Huệ suốt mấy tháng trời, để tuyển chọn người có đủ trình độ giác ngộ và tự nguyện cùng ba tôi gánh vác trọng trách của người thanh niên mất nước. Những người được Nguyễn An Ninh kết nạp vào tổ chức ban đầu, giữa đồng trống vắng vẻ vào ban đêm là Võ Thành Mong, Hồ Văn Long, Võ Văn Tần, Võ Văn Ngân, Nguyễn Văn Nhâm, Nguyễn Văn Tiếp, Phan Văn Đối, Nguyễn Thị Thiên, v.v… Họ cũng là những đảng viên đầu tiên của An Nam Cộng sản Đảng vào cuối năm 1929. VõThành Mong, Võ Văn Ngân, Hồ Văn Long là những Xứ ủy viên đầu tiên của An Nam Cộng sản Đảng. Hồ Văn Long là Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ năm 1932, còn Võ Văn Ngân được cử đi dự hôi nghị Ma Cao cùng với Trần Văn Giàu và được bầu vào Trung ương năm 1935. Lớp cốt cán đầu tiên ở Hóc Môn này cả ba và má tôi đều biết rõ, nên cuối năm 1929 khi ba tôi còn đang ở tù thì má tôi đã giới thiệu các cô chú ấy cho chú Châu Văn Liêm.

Đầu năm 1925, ông nội tôi có nhận được thư của cụ Phan Châu Trinh nhờ Ninh sang Pháp đón cụ về. Sau khi đón cụ Phan về, ba tôi lại tiếp tục phát triển tổ chức Thanh niên Cao vọng và đã mời ông Mai Văn Ngọc cùng lãnh đạo và huấn luyện cốt cán, còn Phan Văn Hùm là người bạn tin cậy đã cùng ba tôi đi tuyển chọn cốt cán từ giữa năm 1925 tới 1926, 1927 từ Chợ Gạo ở Mỹ Tho lên các tỉnh miền Đông, sang năm 1928 mới trở xuống miền Tây.

Mốc thời gian này cũng là tương đối, vì có một số cốt cán đã từ miền Tây lặn lội lên Hóc Môn tìm ba tôi và ông Mai Văn Ngọc từ năm 1926 tới 1927, trong số đó có Giáo sư Ca Văn Thỉnh là cụm trưởng ở Mỏ Cày của tổ chức Thanh niên Cao vọng.

Do đó văn kiện mà chú Hà Huy Tập viết về nhân vật Mimin của Đảng Cao vọng là không có thật, các sự kiện và chi tiết khác trong văn kiện cũng đều không có thật.

Nêu dẫn chứng những điều không đúng sự thật trong sách vở hay trên văn kiện thì chắc phải viết nhiều, chỉ có điều là thời gian về sau người ta viết nhẹ nhàng hơn, người ta muốn Nguyễn An Ninh là người có tiếng tăm được quần chúng kính trọng nên làm công tác hợp pháp giúp cho Đảng, muốn Nguyễn An Ninh là người cảm tình của Đảng, chịu sự sắp đặt của Đảng, cũng có nghĩa là người ta chưa hiểu rõ về Nguyễn An Ninh với những suy nghĩ và việc làm của ông. Trong một văn kiện

tháng 10- 1937, bài “Báo cáo về tình hình Đảng Cộng sản Đông Dương” trang 334, hơn một trang Ban chỉ huy ở ngoài (Lê Hồng Phong) phân tích về quyết định của đồng chí S (Hà Huy Tập) qua hai việc:

- Nguyễn An Ninh không muốn vào Đảng (1935)

- Đồng chí S. có ý định cử Nguyễn An Ninh đi Trung Quốc để sau đó đi Mátxcơva (1937).

Tôi xin viết rõ việc ba tôi từ chối vào Đảng, má tôi kể: Từ năm 1921, ông Paul Vaillant-Couturier đã khuyên ba tôi nên gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp, vì ở Pháp Đảng Cộng Sản hoạt động hợp pháp, là đảng viên sẽ được Đảng bảo vệ. Nhưng ba tôi đã từ chối, ba tôi muốn trở về nước hoạt động, ông không nghĩ cho bản thân mà muốn điều lợi cho công việc. Những năm đó, người Việt Nam chưa hiểu cộng sản như thế nào, nhất là tầng lớp trên, “không cộng sản” thì dễ dàng gần gũi và tập hợp mọi tầng lớp quần chúng có lợi cho cách mạng hơn. Đến năm 1929, chú Châu Văn Liêm cũng tha thiết mời ba má tôi tham gia Đảng. Nếu sợ bị tù, ông đã vào Đảng từ ngày còn ở Pháp, vì đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp vẫn hoạt động công khai ở Xứ Nam Kỳ. Thật ra Nguyễn An Ninh có những suy nghĩ độc lập, hoạt động độc lập, không muốn tuân theo một sự ràng buộc nào. Ông tự nguyện làm người bạn đồng hành cùng Nguyễn Ái Quốc trên con đường giải phóng dân tộc, giành độc lập thống nhất đất nước. Ông tán thành đường lối của Nguyễn Ái Quốc, ông được sự giúp đỡ của các lãnh tụ Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1935- 1936, thậm chí năm 1939 cô Minh Khai còn thay mặt Xứ ủy mời ông vào Đảng. Khi ông từ chối, cô còn chỉ trích ông “Có đầu óc lãnh tụ, sợ vào Đảng không được làm lãnh tụ”. Ông đã trả lời cô Minh Khai: “ Nếu tôi muốn làm lãnh tụ thì tổ chức Thanh niên Cao vọng do tôi sáng lập đó, quần chúng sẳn sàng tôn vinh tôi, sao tôi không làm? Khi Nguyễn Thái Học mất đi, anh em tìm đến nhà tôi nhờ tôi dẫn dắt cho Việt Nam Quốc dân Đảng nhưng tôi từ chối. Tôi tự thấy mình không đủ tài đức để làm một lãnh tụ. Việc đó đã có Nguyễn Ái Quốc”.

clip_image100

clip_image102

Di ảnh ông Mai Văn Ngọc

clip_image104

Di ảnh Ông Châu Văn Liêm

Còn việc tại sao đồng chí S. (Hà Huy Tập) lại có ý định cử Nguyễn An Ninh đi Trung Quốc để sau đó đi Mátxcơva với mục đích gì? Má tôi cho biết, ba tôi làm việc gì cũng có mục đích và má tôi là người biết trước tiên. Nếu ý định này xãy ra vào năm 1932-1933 thì có thể, còn xảy ra vào thời điểm 1937 là khó tin. Vì sau khi ra tù lần hai vào cuối năm 1931, ba tôi rất sốt ruột, mất ăn mất ngủ, đã nói với má tôi, người của Nguyễn Ái Quốc đã về rồi, Đảng cũng ra đời, còn Nguyễn Ái Quốc thì không thấy nhắc tới. Gần đây báo chí Sài Gòn lại đưa tin Nguyễn Ái Quốc bị bắt giam ở Hồng Kông, bị ho lao và đã từ trần. Vì vậy mà ba tôi đã làm đơn xin phép ra Bắc, ông bảo má tôi chuẩn bị tiền, xe hơi và tài xế để ông có thể đi khắp mọi nơi tiện lợi hơn đi xe lửa. Nhưng nhà cầm quyền tìm mọi cách ngăn cản, cho đến khi phái đoàn của ông Vaillant-Couturier đến Sài Gòn, ông báo cho ba tôi biết là Nguyễn Ái Quốc còn sống và đã sang Mátxcơva. Ba tôi nhờ ông tìm mọi cách đưa ba tôi ra Bắc gặp Nguyễn Thế Truyền để bàn kế hoạch Truyền trở sang Pháp, nhờ Đảng Cộng sản Pháp tìm cách đưa Nguyễn Ái Quốc về Sài Gòn. Như vậy từ cuối năm 1932 và năm 1933, ba tôi tìm mọi cách để đi ra Bắc, và tìm cách sang Trung Quốc chỉ với mục đích gặp cho được Nguyễn Ái Quốc. Ba tôi đã viết nhiều đơn xin ra Bắc gặp Nguyễn Thế Truyền “để đòi nợ”, ông Vaillant-Couturier cũng lấy danh nghĩa Quốc hội Pháp cho đoàn nhà báo của Nguyễn An Ninh tháp tùng theo đoàn làm phóng sự, nhưng nhà cầm quyền bác bỏ tất cả, rất nhiều thông tri, nghị định của nhà cầm quyền và sở mật thám của 3 kỳ thông báo tìm mọi cách để ngăn chặn chuyến đi của Nguyễn An Ninh.

Như trên đã nói, nếu đồng chí S. có ý định cử Nguyễn An Ninh sang Mátxcơva vào năm 1932-1933 thì có thể vì ba tôi đang quyết tâm tìm gặp Nguyễn Ái Quốc, còn năm 1937 thì khó tin. Theo má tôi cho biết vào năm 1937 là thời kỳ mà Nguyễn An Ninh có ý định rút lui khỏi chính trường, vì ba tôi đã nói với má tôi: “Đông Dương Đại hội là việc cuối cùng tôi làm,vai trò của tôi trên chính trường đến đây đã kết thúc. Tôi muốn dành phần còn lại của cuộc đời cho việc viết sách, tôi muốn viết thật nhiều sách”.

Ba tôi đã bàn với má tôi sang Thụy Sĩ mở tiệm may hay tiệm cơm sinh sống để ba tôi có thời gian nghiên cứu và viết sách mà không bị ai quấy rầy, chưa bao giờ nghe ba tôi bàn việc sang Mátxcơva làm người lưu vong chính trị. Hơn nữa thời cơ để đưa Nguyễn Ái Quốc về Sài Gòn đã qua rồi khi Đảng cộng sản Pháp từ chối tham gia lập chính phủ của Mặt trận Bình dân, và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã về đóng cơ quan tại căn cứ địa Hóc Môn – Bà Điểm để trực tiếp lãnh đạo cách mạng.

Mỗi người đều có một số phận. Tương lai mà ba tôi hằng mơ ước và chưa kịp nhìn thấy là Tổ quốc Việt Nam độc lập, dân tộc Việt Nam được tự do, sánh vai cùng bạn bè trên thế giới nay đã thành hiện thực. Vậy là ông đã vui lòng nơi chín suối, còn mọi chuyện đã là quá khứ.

Nhắc chuyện cũ, tôi chỉ muốn cung cấp thêm tư liệu cho các nhà nghiên cứu và các nhà sử học để suy ngẫm mà thôi, vì thời gian sẽ làm rõ ràng lịch sử và là liều thuốc hay nhất chữa lành mọi tổn thương. Với đồng bào miền Nam, hơn 30 năm từ sau ngày mất của ba tôi đến ngày giải phóng, miền Nam chưa bao giờ quên Nguyễn An Ninh. Lần giở những tờ báo cũ mỗi lần lễ giỗ của ông cũng là dịp báo chí nhắc nhở với mọi người,với thế hệ tiếp nối về một con người đã hiến dâng cả đời mình cho dân cho nước. Và hơn 20 năm trở lại đây, các vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo TP. Hồ Chí Minh cũng hết sức quan tâm tạo điều kiện để tri ân, để làm sáng tỏ cuộc đời và sự nghiệp của một liệt sĩ cách mạng.

Tôi xin thay mặt gia đình cảm ơn các nhà nghiên cứu, các nhà sử học, các dịch giả, các giáo sư tên tuổi đã tham gia các cuộc hội thảo khoa học, đóng góp vào các công trình nghiên cứu về Nguyễn An Ninh. Cảm ơn các nhà xuất bản và các báo đã xuất bản và giới thiệu những tác phẩm về ông bà Nguyễn An Ninh. Cảm ơn tạp chí Hồn Việt đã động viên tôi để tôi có dịp cảm ơn những người đã yêu mến Nguyễn An Ninh.

Tháng 8- 2013

Nguyễn Thị Minh

(con gái thứ năm

của ông Nguyễn An Ninh )

VỀ CÁC KHU MỘ TÁNG TRONG GIA TỘC

I- Khu mộ ở Trung Mỹ Tây:

Đầu tiên chôn trong khu đất nhà rộng hơn 8 ha. Bà Ninh thuê đào một hố có hình chữ nhật 3m x 10m và sâu chỉ 0,5m, vì sợ bị ngập nước. Sau khi chôn xong, bà thuê đào giếng lấy đất đấp cao lên 2m. Nên khu mộ ở xa nhìn như một quả đồi nhỏ, được dùng để an táng ông Nguyễn An Khương, bà Nguyễn Thị Xuyên và Nguyễn An Thái là con ông Khương, chết nhỏ.

Năm 1955 chính quyền Ngô Đình Diệm trưng dụng phần đất này để làm khu giáo xứ. Lúc đó, bà Nguyễn An Ninh và các con đều thoát ly đi kháng chiến và tập kết ra Bắc. Bà Mai Thị Nữ vì vậy đảm nhận việc cải táng lần đầu đưa về nơi phần đất ông Khương khi còn sống đã cho bà Nữ ở phía bên kia con đường. Do sơ sót của bà Nữ nên mộ bà Xuyên không được di dời và đã bị thất lạc.

Rồi do cơn sốt đất đai, dân cư đông đúc, đô thị hóa nhanh sau ngày đất nước giải phóng nên con cháu bà Nữ cắt bớt đất để bán, nên phần mộ di dời một lần nữa do các cháu ngoại của bà Nữ thực hiện mà không báo cho các con của ông Nguyễn An Ninh. Ngày nay khu mộ tọa lạc ở sân sau nhà Lê Văn Khải, cháu cố bà Nữ ở số 150/2 Hương lộ 80, ấp Mỹ Hòa, xã Tân Xuân.

Nơi đây có các ngôi mộ xây xi măng:

1- Mộ song hồn của ông Nguyễn An Khương và bà Mai Thị Nữ (bà Nữ mất năm 1968, mộ táng tại đây có bia mộ khắc chữ Việt).

2- Mộ Nguyễn An Thái, bia mộ khắc chữ Hán.

3- Mộ song hồn của ông Nguyễn Văn Hải (An Hải) và bà Trần Thị Leo, không có bia mộ, con riêng của bà Mai Thị Nữ.

4- Mộ Lê Thị Tảo, con ông Hải, nữ sinh trường Hoàng Gia Huệ, chết năm 16 tuổi.

II- Khu mộ ở Tân Xuân

Sinh thời ông Nguyễn An Cư chuyên nghề Đông y ở chợ Hóc Môn và đã thịnh vượng một thời. Ông có nhà ở Mỹ Hòa. Năm 1929, ông mua một khoảnh đất 1.067m2 ở Tân Thới Trung (nay là ấp 2 xã Tân Xuân) để làm sinh phần cho mình. Xung quanh ông xây tường bằng đá xanh mỗi cạnh 11m theo hướng Bắc Nam.

Ngày nay, cháu ngoại ông Cư là Nguyễn Thị Hoa đang sống trên đất này, ở khoảnh mộ địa sau nhà, cách Hương lộ 70 khoảng 100m.

Trong khu mộ này có các ngôi mộ:

1- Mộ song hồn bằng đá xanh to lớn của ông Nguyễn An Cư và bà Cao Thị Thình.

2- Mộ song hồn xây bằng xi măng của ông Nguyễn An Nghi và Dương Thi Tiền, đây là hai ngôi mộ cải táng có thời gian khác nhau.

a. Khi bà Tiền mất ở Chiêu Nam Lầu, mộ táng ở nghĩa địa Đô Thành Chí Hòa. Đến năm 1929, ông Cư cho cải táng về đây.

b. Ông Nghi có mộ đá xanh ở Phước Quàng từ năm 1886. Một thời gian sau, năm 1993 (ngày 24 tháng Chạp năm Nhâm Thân) bà Nguyễn Thị Lạc mới thực hiện được di huấn của cha là bốc hài cốt ông về cải táng tại quê nhà gần bên ông. Lần đó, bia mộ không đem về được.

3- Mộ bà Đinh Thị Tình là mẹ bà Cao Thị Thình.

4- Mộ ông Nguyễn Văn Quyền là chồng bà Nguyễn Thị Lạc.

5- Mộ Hồ Thị Hối, chết nhỏ, con bà Lạc với người chồng trước Hồ Văn Thuộc.

III- Mộ bà Trương Thị Ngự, vợ ông Nguyễn An Khương

Năm 1911 mộ bà nằm ở khu mộ dòng họ Trương Dương tại Long Thượng. Năm 2002 đã được các cháu nội cải táng đưa hài cốt về tại khu Nhà Tưởng Niệm Nguyễn An Ninh, đường Nguyễn Ảnh Thủ phường Trung Mỹ Tây.

IV- Mộ bà Trương Thị Sa (Sáu), vợ ông Nguyễn An Ninh:

Mộ bà táng ở Nghĩa tranh Thành phố, thuộc quận 9.

Bên cạnh mộ bà là mộ ông Trương Văn Bang cháu gọi bà bằng cô.

Hiện nay Thành phố có thêm nhiều nghĩa trang mới. Đây là nghĩa trang đầu tiên có tên là Lạc Cảnh do Câu lạc bộ Kháng chiến đặt tên, có nghĩa là cảnh vui.


clip_image106

ĐỊA DANH

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NƠI Ở CỦA GIA ĐÌNH

Khi viết và nói về quê hương của ông Nguyễn An Ninh cũng như của hai ông Nguyễn An Khương và Nguyễn An Cư, ta thường gặp các tên làng, thôn đã ghi trong phần phả hệ như : Trung Chánh, Trung Mỹ Tây, Mỹ Hòa, Phước Lý, Long Thượng, Phước Lại. Nhân đây xin ghi lại cho rõ.

Sách Đại Nam Nhất thống chí viết:

Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược phương Nam, đặt ra phủ Gia Định bao gồm cả miền Đông Nam Bộ đến bờ sông Vàm Cỏ ở phía Nam, có hai huyện là Phước Long và Tân Bình, dưới huyện là tổng, thôn.

Năm 1802, phủ Gia Định gọi là trấn, đến năm 1808 đổi là Gia Định Thành, đặt ra chức Tổng trấn quan để quản nhiếp năm trấn là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên, và thăng huyện thành phủ. Phủ Tân Bình lãnh coi 4 huyện là Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc, Thuận An.

Huyện Bình Dương có 2 tổng là Dương Hòa, Bình Trị.

Huyện Tân Long có 2 tổng là Tân Phong, Long Hưng.

Huyện Phước Lộc có 2 tổng là Phước Điền, Lộc Thành.

Huyện Thuận An có 2 tổng là Bình Cách, Thuận Đạo.

Năm 1832, lấy 2 huyện Phước Lộc, Thuận An lập thành phủ Tân An, hai huyện Bình Dương, Tân Long thuộc phủ Tân Bình như cũ.

Năm 1834, toàn Nam Bộ chia thành 6 tỉnh (Nam Kỳ lục tỉnh) là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.

Năm 1836, đo đạc lập địa bạ (địa bạ Minh Mạng) đã cho thấy rõ vị trí ranh giới, duyên cách, diện tích điền thổ các thôn, xã và một tổng phân thành nhiều tổng, ghi thêm chữ thượng, trung, hạ ở cuối.

* Lúc này huyện Bình Dương có 6 tổng là: Bình Trị Thượng, Bình Trị Trung, Bình Trị Hạ, Dương Hòa Thượng, Dương Hòa Trung , Dương Hòa Hạ.

Tổng Dương Hòa Thượng có 20 thôn: Mỹ Toàn, Tân Đông Thượng, Tân Đông Trung, Tân Sơn Nhất, Tân Sơn Nhì, Tân Thới Hạ, Tân Thới Trung, Tân Thới Thượng, Tân Thới Đông, Tân Thới Tây, Tân Thới Nhì, Tân Thới Tam, Tân Thới Tứ, Thuận Kiều, Trung Chánh, Trung Chánh Tây, Xuân Thới, Xuân Thới Đông, Xuân Thới Tây, Tân Thới Nhất.

. Địa giới thôn Trung Chánh: Đông giáp Trung Chánh Tây, Tân Thới Thượng. Tây giáp Tân Thới Trung, Tân Đông Trung và Mỹ Toàn. Nam giáp Tân Đông Thượng. Bắc giáp Tân Thới Hạ, Tân Thới Trung và Trung Chánh Tây.

. Địa giới thôn Trung Chánh Tây: Đông giáp Tân Đông và Thới An (Bình Trị Hạ). Tây giáp Tân Thới Hạ, Trung Chánh. Nam giáp Trung Chánh, Tân Đông Thượng. Bắc giáp Thới Hoa (Bình Trị Hạ).

. Địa giới thôn Mỹ Toàn : Đông giáp Trung Chánh. Tây giáp Tân Thới Trung. Nam giáp Tân Thới Nhất, Tân Thới Thượng. Bắc giáp Tân Thới Trung.

Năm 1839, tỉnh Gia Định đặt thêm phủ Tây Ninh.

Năm 1841, phủ Tân Bình tăng thiết thêm huyện Bình Long (tách từ huyện Bình Dương).

* Huyện Bình Long có 5 tổng: Bình Thạnh Thượng, Bình Thạnh Trung, Bình Thạnh Hạ, Long Tuy Thượng và cầu An Hạ.

* Về huyện Phước Lộc:

Xưa là tổng thuộc huyện Phước Long, nay theo địa thể thăng lên là huyện thuộc phủ Tân Bình, có hai tổng Phước Điền (vùng Cần Giuộc) và Lộc Thành (vùng Cần Đước).

Năm 1836, theo Sổ Địa bạ mới lập đã thấy huyện Phước Lập có 4 tổng là Phước Điền Thượng, Phước Điền Trung, Lộc Thành Thượng, Lộc Thành Trung (thời thuộc Pháp mới có tổng Phước Điền Hạ và Lộc Thành Hạ).

Ở thời kỳ tổng Phước Điền trước 1836 đã quản lý 48 xã, thôn, phường và xuất hiện tên của 3 thôn Long Đinh, Phước lý, Phước Quảng.

Sau năm 1836, tổng Phước Điền Trung có 17 thôn trong đó có 2 thôn Long Đinh và Phước Lý. Thôn Phước Quảng thuộc thống hạt ở tổng Long Hưng Trung, huyện Tân Long, phủ Tân Bình.

. Địa giới thôn Long Đinh: đông giáp Tân Điền, Bình Giao. Tây giáp Vĩnh Phước , Phước Bình, Tân Quới. Nam giáp Long Khánh, Long Điền (Lộc Thành Thượng). Bắc giáp Tân Quới.

. Địa giới thôn Phước Lý: Đông giáp phường Vĩnh Phú. Tây giáp Phú An. Nam giáp Phước Bửu (Lộc Thành Thượng). Bắc giáp bình Trường , Bình Thượng (Long Hưng Hạ).

. Địa giới thôn Phước Quảng: Đông giáp Long Vượng, Phước Toàn Trung. Tây giáp Phước Vân (Lộc Thành Thượng), Long Hiệp. Nam giáp Tuy Lộc (lộc Thành Thượng). Bắc giáp Long Vượng, Phước Toàn Trung.

Về xã Phước Lại: hai tổng Phước Điền , Lộc Thành cũng thuộc huyện Phước Lộc. lúc đầu tổng Lộc Thành có 47 thôn phường trong đó đã có tên thôn Phước Lại.

Đến năm 1836 sổ địa bạ ghi thôn Phước Lại là một trong 21 thôn phường thuộc tổng Lộc Thành Trung.

. Địa giới thôn Phước Lại: Đông giáp rừng và Phước Vĩnh Đông. Tây giáp sông và Tân Kim (Phước Điền Trung). Nam giáp Phước Vĩnh Đông. Bắc giáp Long Đức Đông (nay là xã Long Hậu).

*Thời thuộc Pháp:

Sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông, từ 1862 Pháp vẫn giữ nguyên cách phân ranh hành chánh cũ chỉ thay đổi bằng quan lại người Pháp để thi hành chánh sách trực trị. Sài Gòn chia thành 7 hạt Tham biện (Inspection) rồi thu lại còn 5 hạt.

1. Hạt Sài Gòn có 3 huyện Bình Dương, Bình Long, Ngãi An.

2. Hạt Cholon có huyện Tân Long , Phước Lộc

3. Hạt Gò Công có huyện Tân Hòa

4. Hạt Tân An có huyện Tân Thạnh, Cữu An

5. Hạt Tây Ninh có huyện Tân Ninh, Quan Hóa

Đến năm 1880, toàn Nam Kỳ có 20 địa hạt (Arrondiment) đến năm 1889 đồi lại thành tỉnh (Province) và hình thành hai thành phố Sài Gòn và ChoLon.

Tỉnh Gia Định có 18 tổng (bỏ tổng Dương Hòa Trung) và phần lớn thôn xã nhập vào thành phố Sài Gòn. Trong 18 tổng thì tổng Bình Thạnh Hạ có 16 làng là: Mỹ Hòa, Tân Đông Thượng, Tân Đông trung, Tân Hội, Tân Hưng, Tân Thới Nhất, Tân Thới Thượng, Thới An,Thới Hòa, Thuận Kiều, Trung Chánh, Trung Chánh Tây, Trung Hưng, Xuân Hòa, Xuân Thới Tây và Vĩnh Lộc.

Tỉnh Cholon có 11 tổng, phần lớn thôn xã của huyện Tân Long nhập vào thành phố Cholon. Trong 11 tổng ấy thì:

Tổng Long Hưng Hạ có 6 làng: An thạnh, Long Hiệp, Long Phú, Phước Lợi,Tân Bửu, Thanh Hà. Xuất hiện thôn Phước lợi và không còn tên Phước Quảng.

Tổng Phước Điền Thượng có 6 làng: Hưng Long, Long Thượng. Phước Lý, Quy Đức, Tân Kim, Tân Quý Tây. Xuất hiện tên Long Thượng và không còn tên Long Đinh.

Tổng Phước Điền Hạ có 8 làng: Đông Thạnh, Long Đức Đông, Long Hậu Tây, Long phụng, Phước Lại, Phước Vĩnh Đông, Phước Vĩnh Tây , Tân Tập.

Từ năm 1931, hai thành phố Sài gòn và Chợ Lớn sáp nhập lại gọi là Địa phương Sài Gòn – ChoLon (Région de S. C).

Tỉnh Gia Định có 4 quận: Hóc Môn, Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè.

Quận Hóc Môn có 5 tổng: Long Tuy Thượng, Long Tuy Hạ, Long Tuy Trung, Bình Thạnh Hạ, Bình Thạnh Trung.

Tổng Bình Thạnh Hạ có 7 làng: Xuân Thới Thượng, Tân Hòa, Mỹ Hòa, Trung Mỹ Tây, Tân Thới Nhất, Đông Hưng Thuận, Tân Thới Hiệp.

* Dưới chế độ Sài Gòn:

Cấp tổng không còn, hệ thống hành chánh từ xã trực tiếp lên quận, tỉnh Gia Định cắt một phần đất đưa về tỉnh Bình Dương, một phần đất

đưa về tỉnh Hậu Nghĩa, các quận là Bình Chánh, Cần Giờ, Gò Vấp, Hóc Môn, Nhà Bè, Quảng Xuyên,Tân Bình, Thủ Đức.

Quận Hóc Môn có các xã: Đông Hưng Tân, Đông Thạnh, Nhị Bình,Tân Hiệp, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhì, Tân Thới Nhất, Tân Thới Trung,Thới Tam Thôn,Trung Mỹ Tây, Xuân Thới Sơn, Xuân Thới Thượng.

Tỉnh Long An có 7 quận: Bến Lức, Bình Phước, Cần Đước, Cần Giuộc, Rạch Kiến, Tân Trụ, Thủ Thừa.

Xã Phước Lợi thuộc quận Bến Lức, xã Long Thượng và Phước Lại thuộc huyện Cần Giuộc, xã Phước Lý thuộc quận Rạch Kiến.

* Gia Định và Long An ngày nay:

Sau năm 1975, Sài Gòn – Gia Định thiết lập thành thành phố Hồ Chí Minh gồm: Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định cũ, Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa, Phú Hòa của tỉnh Bình Dương và xã Hiệp Phước của huyện Cần Giuộc.

Huyện Hóc Môn có: Thị trấn Hóc Môn, xã Tân Thới Nhì, Tân Hiệp, Thới Tam Thôn, Đông Thạnh, Nhị Bình, Xuân Thới Sơn, Tân Xuân, Trung Mỹ Tây, Tân Thới Hiệp, Thạnh Lộc, Xuân Thới Thượng, Tân Thới Nhất, Đông Hưng Thuận, An PHú Đông, Tân Chánh Hiệp, Bà Điểm.

Đầu năm 1996, các xã Trung Mỹ Tây, Tân Thới Hiệp, Thạnh Lộc, Tân Thới Nhất, Đông hưng Thuận, An Phú Đông và Tân Chánh Hiệp đổi thành phường thuộc quận 12. Ấp Mỹ Hòa thuộc xã Tân Xuân, quận 12.

Tỉnh Long An có thị xã Tân An, huyện Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Đức Huệ, Đức Hòa, Châu Thành, Tân Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc, Bến Lức.

Phước Lợi thuộc huyện Bến lức, xã Phước Lý, Long Thượng, Phước Lại thuộc huyện Cần Giuộc.

clip_image108

Bản đồ Quận Hóc Môn , Gia Định, 1902

clip_image110

Bản đồ Tỉnh Chợ Lớn

clip_image112

Bản đồ huyện Cần Giuộc Tỉnh Long An

TRANG ẢNH

clip_image114

Di ảnh Cụ Phan Bội Châu

clip_image116

Ảnh ông Nguyễn An Ninh số 1, Ông Nguyễn Thế Tuyền số 3

Là 2 người bạn thân của Ông Nguyễn Ái Quốc tại Pháp năm 1927

clip_image118

Khu mộ ông Hội đồng Trương Dương Lợi ở Long Thượng (Cần Giuộc)

clip_image120

Các cháu viếng mộ Bà Trương Thị Ngự

clip_image122

Khu mộ họ Ngô xã Phước Lại Cần Giuộc

clip_image124

Mộ Ông Trương Điều ở xã Phước Lại, Cần Giuộc

MỘ BIA ÔNG NGUYỄN AN NINH Ở CÔN ĐẢO

clip_image126

clip_image128

Ông Nguyễn Minh Triết, ông Phạm Thế Duyệt và ông Trần Minh Sanh thăm mộ Nguyễn An Ninh tại Côn Đảo nhân ngày thương binh liệt sỹ năm 2005

clip_image130

Ảnh Nguyễn An Ninh tại Bảo Tàng Côn Đảo

clip_image132

Bia Nguyễn An Ninh con cháu dựng năm 2005 tại Côn Đảo

clip_image134

Lễ khởi công xây dựng nhà tưởng niệm Nguyễn An Ninh

ở Hóc Môn, 2000

clip_image136

Nhà tưởng niệm tại đường Nguyễn Ảnh Thủ khu phố 3,

phường Trung Mỷ Tây, Quận 12

Năm 2012 đổi là khu phố 7

clip_image138

Đồng bào thắp hương tại nhà tưởng niệm Nguyễn An Ninh ở Trung Mỹ Tây

clip_image140

Nhà thờ gia tộc tại 133 Nguyễn Văn Trỗi Phú Nhuận

clip_image142

Mộ bà Trương Thị Sáu tại nghĩa trang Lạc Cảnh

clip_image144

Khu mộ sau nhà Lê Văn Khải 150/2 Nguyễn Ảnh Thủ - Tân Xuân

MỘT SỐ TÀI LIỆU MỚI TÌM

clip_image146

clip_image148

clip_image150

clip_image152

clip_image154

clip_image156

clip_image158

clip_image160

clip_image162

clip_image164

clip_image166

clip_image168

clip_image170

LỜI TRẦN TÌNH

CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH

GIA PHẢ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chúng tôi rất tâm đắc, phấn khởi và hãnh diện khi đứng ra nhận trách nhiệm dựng và đã hoàn thành bộ Gia phả của họ Nguyễn, họ Trương này. Vì nhiều lý do:

- Trước hết, đây là việc nghĩa, là công việc có tính văn hóa lâu dài.

- Sau nữa, dựng bộ Gia phả này là chúng tôi trực tiếp giúp cho con cháu họ Nguyễn, họ Trương có được một quyển sử của dòng họ. Qua đó hiểu được tổ tiên ông bà, truyền thống dòng họ, nơi chôn nhau cắt rốn, hiểu được những tấm gương, những nét đẹp để bảo lưu và tôn vinh. Đây là những điều mà nhóm Gia phả chúng tôi mong ước .

Chúng tôi hãnh diện và phấn khởi vì đây là hai họ đã có những đặc điểm nổi bật trong sự nghiệp cách mạng, có những cống hiến to lớn cho cách mạng Việt Nam. Họ Nguyễn đã sinh ra Nguyễn An Ninh – một nhà yêu nước vĩ đại - . Họ Trương đã sinh ra Trương Thị Sa – một phụ nữ tiêu biểu của truyền thống phụ nữ Việt Nam, một người vợ đảm đang, người mẹ mẫu mực và là một Đảng viên Cộng sản kiên cường của đất Sài Gòn- Gia Định.

Chị Nguyễn Thị Minh, con gái cụ Nguyễn An Ninh và anh Nguyễn Sơn, chồng chị là những người đã có ý thức và hằng mong muốn dựng một bộ gia phả cho cả hai họ: bên cha và bên mẹ. Hai anh chị đã chủ động nói rõ yêu cầu và chúng tôi sẵn sàng, tích cực bắt tay vào xây dựng bộ gia phả này.

Gia phả là một quyển sách ghi các thế hệ dòng họ và lịch sử của tổ tiên; Gia thặng, Gia điệp cũng có ý nghĩa như Gia phả. Trong đó có phần kỷ sự tức là tiểu sử, tiểu truyện cũng là những bài chép sự tích của những người trong họ.

Để làm bộ Gia phả, chúng tôi đã phải tìm hiểu sâu từng yếu tố trong mỗi dòng họ như: tìm hiểu gia chính (những quy tắc, cách sửa trị trong nhà), gia đạo (phép tắc trong nhà), gia lễ (lễ nghi trong nhà), gia phong (tập quán và giáo dục trong gia tộc) và các việc quan hôn tang tế là những điều hệ trọng mà mỗi người Việt Nam ai cũng quan tâm.

Tuy là một phả giản đơn song nội dung cũng đã hệ thống được các thành viên trong họ theo một cấu trúc hợp lý, phù hợp với phương pháp gia phả của cha ông ta.

Nhóm Gia phả chúng tôi đã cố gắng giúp chị Minh và anh Sơn, giúp hai dòng họ Nguyễn – Trương thực hiện được ý nguyện thiêng liêng chính đáng của mình và chúng tôi cũng xem đây như một lễ vật để dâng lên trước hương hồn những người đã khuất. Đồng thời bộ Gia phả này cũng là một tác phẩm nghiêm chỉnh để con cháu trong họ, những người quan tâm về gia phả học, lịch sử học có thể hiểu thêm về

dòng họ có nhiều nét đặc sắc sáng chói ở thành phố Hồ Chí Minh chúng ta.

Ngày 01-8- 1999

Võ Ngọc An

Trưởng nhóm

Nhóm Nghiên cứu và Thực hành

Gia phả TP. Hồ Chí Minh

clip_image171

MỤC LỤC

I/ LỜI TỰA …………………………………………..……………… trang 2

II/ PHẢ KÝ_ Họ Nguyễn ở Trung Chánh Hóc Môn……………........ trang 6

III/ PHẢ HỆ họ Nguyễn ………………………………….……....... trang 14

.Đời I Nguyễn An Nghi …………………………………………….. trang 15

.Đời II con ông Nguyễn An Nghi và bà Dương Thị Tiền…………....trang 17

.Chi ông Nguyễn An Khương ……………………………...………. trang 31

.Đời III con ông Nguyễn An Khương và bà Trương Thị Ngự ……....trang 32

.Đời IV con ông Nguyễn An Ninh và bà Trương Thị Sáu …….….... trang 38

.Chi ông Nguyễn An Cư ……………………………………...……. trang 44

.Đời III con ông Nguyễn An Cư và bà Cao Thị Thình………............ trang 45

.Họ Trương ở Phước Lại – Cần Giuộc…….……………………...….trang 47

.Phả hệ họ Trương – Đời I ……………………………..………...…..trang 54

.Đời II các con ông Trương Điều ………………………..………..…trang 56

.Chi ông Trương Khịt …………………………….……….…………trang 60

.Đời III ………………………………………….……….………..….trang 61

.Đời IV con ông Trương Văn Khải và bà Đặng Thị Mai .………...…trang 62

.Chi ông Trương Văn Thập ………………………………..………...trang 63

.Đời III con ông Trương Văn Thập và bà Vương Thị Điền ...........…trang 64

.Đời IV con ông Trương Văn Bang và bà Nguyễn Thị Một ……..….trang 67

.Phả đồ họ Trương ở Phước Lại (Cần Giuộc) …….…………..…….trang 68

IV/ NGOẠI PHẢ ……..………………………………..……..……..trang 69

.Nguyễn An Khương – Nguyễn An Ninh – Trương Thị Sáu .……...trang 70

V/ PHỤ KHẢO ……………...………………………………..…….trang 97

.Chí sỹ Nguyễn An Ninh người đánh thức cả một thế hệ …...........…trang 98

.Về các khu mộ táng trong gia tộc ………………………….….…...trang 132

.Bản đồ quận Hóc Môn, Gia Định năm 1902………….……...…….trang 139

.Bản đồ tỉnh Chợ Lớn ………………………………..………..……trang 140

.Bản đồ huyện Cần Giuộc tỉnh Long An ………….……..…..……..trang 141

.Trang ảnh ……………………………………………….…………trang 142

.Một số tài liệu mới ………………………….……...………...……trang 150

.Lời trần tình …………………………………...………...…………trang 163

***************************************************************************************

NHỮNG TRANG KHÁC CỦA KHOA HỌC THẾ KỶ 21

MỤC LỤC

CÁC BÀI ĐĂNG TRƯỚC

TÁC GIẢ THIẾT KẾVÀ BIÊN TẬP

THỜI TRANG VÀ KHOA HOC
TPHCM, TB, Vietnam
THỜI TRANG KHOA HỌC QUẢNG CÁO
Xem hồ sơ hoàn chỉnh của tôi

KHÁN VÀ ĐỌC GIẢ

Sparkline 31,733

THỜI SỰ

thanh nien viet baotuoitre

Rethinking aid and corruption in Vietnam

Thanh Nien Daily

“Vietnam should stop regarding ODA as an achievement in international relations so it can tread more carefully before deciding on asking for more international aid,” said Nguyen DucThanh, a Vietnamese economist who advises the prime minister on ...

Vietnam cops jailed for killing suspect in custody

Thanh Nien Daily

The family of NgoThanh Kieu, 32, who was beaten to death during interrogation by five police officers in Phu Yen Province in 2012, with photos of his injuries at the officers' trial on March 28. Photo courtesy of Nguoi Lao Dong Newspaper. A court in ...

Ukraine accuses Russia of orchestrating separatist moves

Thanh Nien Daily

Vietnam latest news -Thanh Nien Daily · Home · Vietnamese Edition · About us. Go Search. Politics · Business · Society · Youth / Science · Sports · Entertainment / Arts · Travel · Health · World / Region · Special Report · Commentaries · Editorial ...

Fastfood Giant Jollibee joins foodpanda Vietnam

Thanh Nien Daily

Vietnam latest news -Thanh Nien Daily · Home · Vietnamese Edition · About us. Go Search. Politics · Business · Society · Youth / Science · Sports · Entertainment / Arts · Travel · Health · World / Region · Special Report · Commentaries · Editorial ...

powered by

NHÓM BT

TRINH CHIẾU VIDEO

Loading...

CÁC BÀI ĐĂNG TRƯỚC

Trang chủ

powered by

Không có nhận xét nào: