Slideshow all photo lễ giỗ lần thứ 184 Tả Quân Lê Văn Duyệt
CÓ 3 NỀN VĂN HOÁ LỚN HIỆN NAY
TỰA VÀO 3 MỆNH ĐỀ LỚN SAU
TỰA VÀO 3 MỆNH ĐỀ LỚN SAU
1-NỀN VĂN HOÁ “KINH THÁNH” MỌI MUÔN VẬT
ĐỀU DO THƯỢNG ĐẾ TRỜI ĐẤT SINH RA
ĐỀU DO THƯỢNG ĐẾ TRỜI ĐẤT SINH RA
2- NỀN VĂN HOÁ “KINH DỊCH” TẤT CẢ MỌI THỨ
ĐỀU DO ÂM DƯƠNG MÀ HÌNH THÀNH
ĐỀU DO ÂM DƯƠNG MÀ HÌNH THÀNH
3- NỀN VĂN HOÁ “DARWIN . MARK . LENIN” TẤT CẢ
MỌI THỨ,MỌI SỰ VIỆC PHẢI CÓ THỜI GIAN TIẾN
HOÁ MÀ HÌNH THÀNH
MỌI THỨ,MỌI SỰ VIỆC PHẢI CÓ THỜI GIAN TIẾN
HOÁ MÀ HÌNH THÀNH
- NỀN VĂN HOÁ VẬN CHUYỂN NỀN
KINH TẾ QUỐC GIA VÀ THẾ GIỚI
- CÁC NỀN VĂN HOÁ ĐƯỢC LAN TRUYỀN
TỪ CÁC TÔN GIÁO
- TỪ KHI THUYẾT NGUYÊN TỬ RA ĐỜI
CHỨNG MINH ÁNH SÁNG LÀ VẬT CHẤT
TỪ CÁC TÔN GIÁO
- TỪ KHI THUYẾT NGUYÊN TỬ RA ĐỜI
CHỨNG MINH ÁNH SÁNG LÀ VẬT CHẤT
- KỸ THUẬT CÓ TRƯỚC KHOA HỌC
Nhan chuột vô link ở dưới
Lễ giỗ lần thứ 184 của Tả Quân Lê Văn Duyệt
giỗ tả quân Lê Văn Duyệt tại Lăng Ông Bà Chiểu
quận Bình Thạnh TPHCM kéo dài 3 ngày từ
31/08/2016 đến hết ngày 2/9/2016 vì lịch Tây và
Âm lịch nó có sự sai biệt nhau ,nên sang năm
nó có thể khác...nhưng hình ảnh và phim quay
mà tôi đưa lên site là ngày 1 tháng 9 năm 2016 lễ
giỗ này ngày tháng là lịch Tây
giỗ tả quân Lê Văn Duyệt tại Lăng Ông Bà Chiểu
quận Bình Thạnh TPHCM kéo dài 3 ngày từ
31/08/2016 đến hết ngày 2/9/2016 vì lịch Tây và
Âm lịch nó có sự sai biệt nhau ,nên sang năm
nó có thể khác...nhưng hình ảnh và phim quay
mà tôi đưa lên site là ngày 1 tháng 9 năm 2016 lễ
giỗ này ngày tháng là lịch Tây
Sơ lược về Lê Văn Duyệt bài này chép từ Wikipedia "Xem ảnh ở dưới "
Dưới thời Gia
Long - Minh
Mạng, Gia
Định là cả
một vùng rộng lớn. Năm 1832 sau khi Lê Văn Duyệt từ trần, chế độ Tổng Trấn Gia
Định mới bị bãi bỏ. Minh Mạng chia trấn này thành sáu tỉnh[1].
Lê Văn Duyệt sinh năm Giáp Thân (1764) tại Cù Lao Hổ,
cạnh vàm Trà Lọt, nay thuộc làng Hòa Khánh, tỉnh Tiền
Giang. Nội tổ là
Lê Văn Hiếu từ Quảng
Ngãi đi vào
Nam sinh sống. Sau khi ông Hiếu qua đời, cha Lê Văn Duyệt là Lê Văn Toại và
thân mẫu là Nguyễn Thị Lập... rời Trà Lọt đến ở tại vùng Rạch Gầm, thuộc làng
Long Hưng tỉnh Tiền Giang ngày nay.
Ông sinh ra đã mang tật kín bẫm sinh (ái nam ái nữ).
Thuở nhỏ ít chịu học hành mà chỉ thích bắt chim, đánh cá, nhất là việc nuôi gà,
đá gà và tụ tập các trẻ trong làng, chia phe tập trận đánh giặc.(Sau này,
ông còn là người rất sành thú xem hát bội và thường tự tay cầm chầu). Tương
truyền ông khỏe mạnh, thông minh, giỏi võ thuật, tuy không học nhiều, nhưng
biết nhiều tuồng tích Tàu. Vì thế, ông luôn ước ao trở thành hào kiệt như trong
truyện xưa miêu tả; mới 15 tuổi, Lê Văn Duyệt đã nói sinh ở đời loạn,
không dựng cờ, đánh trống đại tướng, chép công danh vào sử sách không phải là
trượng phu.
Năm Lê Văn Duyệt lên 17 tuổi, một cơ may đến với ông
là, đêm hôm đó chúa Nguyễn bị quân nhà Tây
Sơn đuổi
gấp. Nhờ mưa to gió lớn thuyền của đối phương không đuổi kịp. Nhưng khi đến Vàm
Trà Lọt thì thuyền chở chúa bị sóng lớn làm cho suýt chìm. Lê Văn Duyệt xuất
hiện đúng lúc, cứu Nguyễn Phúc Ánh thoát nạn. Biết là gặp dòng dõi chúa Nguyễn,
cụ Lê Văn Toại hết sức cung kính, cho tất cả tạm trú ở đây, nhân đó ông được
Nguyễn Phúc Ánh tuyển dụng làm thái
giám. Ít lâu sau
Lê Văn Duyệt được phong làm Cai Cơ trông coi nội binh.
Từ năm 1789 ông bắt đầu đứng vào hàng tướng lãnh của
chúa Nguyễn. Năm 1793, Lê Văn Duyệt cùng với Nguyễn Phúc Ánh đi đánh Qui
Nhơn, lấy được
phủ Diên Khánh và phủ Bình Khương. Tháng 1 năm 1801 ông cùng chúa và các tướng
lãnh khác như Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương, Võ
Di Nguy đánh
chiếm cửa biển Thị
Nại (trận
Thị Nại). Quân Tây Sơn thua to. Tháng 4 Nguyễn Phúc Ánh đem thủy quân ra Đà
Nẵng. Đến tháng 5
vào cửa Tư Dung, Lê Văn Duyệt phá được quân Tây Sơn, bắt được phò mãNguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách rồi vào cửa Eo. Vua Cảnh Thịnh mang quân ra giữ cửa Eo nhưng thua phải chạy ra
Bắc. Ngày 3 tháng 5, Nguyễn Phúc Ánh đem binh vào thành Phú
Xuân. Xem ảnh 127 ảnh
Tháng 5 năm 1802 chúa Nguyễn lên ngôi, chọn đế
hiệu: Gia Long. Vua phong ông là Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình
Tây Tướng Quân, lệnh cùng với Lê
Chất mang
quân thâu phục Bắc Hà. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn thì xong việc. Nhiều
công lao lớn nên Lê Văn Duyệt được liệt vào hàng Đệ Nhất Khai Quốc Công Thần,
với đặc ân được vào chầu vua không phải lạy (nhập triều bất bái) và được đặc
quyền chém trước tâu sau (tiền trảm hậu tấu) nơi biên thùy, nên sau này ông
không chịu lạy vua Minh
Mạng và đã
giết Huỳnh Công Lý, cha của một quí phi, vì tội tham nhũng.
Và ông còn là người đã từng khuyên vua Gia Long chọn
con của Đông Cung Cảnh để nối ngôi, thay vì hoàng tử Đảm (sau là vua Minh
Mạng). Tuy vậy, ông vẫn phò tá vua Minh Mạng cho đến hết cuộc đời, mặc dù lòng
không kính phục ông vua này. Ngược lại, Minh Mạng cũng không ưa gì ông nhưng
vẫn phải dùng đến. Năm 1823 ông được MM ân thưởng ngọc đái với lời dụ: Từ
xưa hoàng tử, chư công chưa ai được ân tứ ngọc đái này, nay khanh đã nhiều công
lao nên đặc biệt ân tứ vậy.
Tả Quân Lê Văn Duyệt làm Tổng Trấn thành Gia Định hai
thời kỳ: Thứ nhất từ 1812 đến 1815. Năm 1812 ông lãnh chức Tổng Trấn thành Gia
Định, kiêm trông coi luôn cả Bình
Thuận và Hà
Tiên. Đến năm 1815 ông được chỉ triệu về kinh để bàn nghị về ngôi Thái Tử.
Lần thứ nhì từ năm 1820 cho đến khi mất. Lê Văn Duyệt
làm tổng trấn ở Gia Định thành. Tả quân lúc bấy giờ rất uy quyền, lòng người ai
cũng kính phục, gọi ông là "ông Lớn,ông Thượng". Đương thời các nước
lân cận đều sợ oai phong của Lê Văn Duyệt, gọi ông là "Cọp Gấm Đồng
Nai", một trong ngũ hổ tướng (bốn người còn lại là Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Huỳnh Đức và Trương Tấn Bửu).
Lê Văn Duyệt đã thành lập hai cơ quan từ thiện là
"Anh hài" để rèn luyện võ nghệ cho trẻ thích việc kiếm cung và
"Giáo dưỡng" để cho những trẻ khác và quả phụ học văn chương, nghề
nghiệp. Thành Phiên An (tức thành Gia Định) do ông cho xây đắp thêm, đến
năm 1830 thì xong. Thành được xây bằng đá ong, thành cao, rộng. Sau khi ông
mất, Lê Văn Khôi con nuôi của ông, khởi loạn chiếm thành, quân triều đình vây
đánh 3 năm mới hạ được.
Tả quân lâm trọng bệnh và mất ngày 30 tháng 7 năm Mậu
Thìn (nhằm ngày 15 tháng 8 năm 1832) hưởng thọ 69 tuổi. Miếu mộ của ông được
xây cất tại Bình Hòa Xã (Gia Định), nơi người dân Đồng Nai kính cẩn gọi là
“Lăng Ông” hay đền thờ Đức Thượng Công, còn các tộc người Hoa tôn xưng đền là
“Phò Mã Da Da.”
Tài đức
Lê Văn Duyệt là một vị quan rất mực thanh liêm. Dù
quyền hành lớn, ông không hề hiếp đáp kẻ dưới, hoặc tìm mọi cách để bỏ túi
riêng. Nhiều lúc Lê Văn Duyệt còn bỏ tiền riêng của mình để làm việc hữu ích
chung. Quân lính của ông rất có kỷ luật, không hề phá phách, cướp bóc… Và khi
được triều đình cử đi dẹp loạn ở nơi nào, Lê Văn Duyệt cho điều tra kỹ để biết
rõ nguyên nhân tại sao dân nỗi loạn. Nếu biết chắc do đám quan lại sở tại tham
nhũng, bức hiếp làm cho dân chúng quá khổ sở, thì ngài thẳng tay trừng trị bọn
tham quan trước rồi mới kêu gọi những kẻ làm loạn trở về đầu thú. Nhờ chính
sách sáng suốt, khoan dung đó nên Lê Văn Duyệt đã vỗ yên ở nhiều nơi nhanh
chóng, mà không tốn kém nhiều tiền bạc và nhân mạng.
Dẫn chứng như việc chiêu dụ Mọi Vách Đá vào những năm 1807 và 1808. Trong
chiến dịch này ông đã cho xử trảm Chưởng Cơ Lê Quốc Huy, một tên đại tham nhũng. Năm 1819 Lê
Văn Duyệt được cử đi kinh lược hai trấn Thanh, Nghệ. Ở đây Lê Văn Duyệt cũng
thẳng tay trừng trị nhiều quan lại tham ô.Đặc biệt là ông cho lập ra ba đội
lính “Hồi Lương” (An Thuận, Thanh Thuận, và Bắc Thuận) gồm những thành phần nổi
loạn chịu qui phục.
Thêm nữa, việc làm nổi tiếng nhất của ông là xử
tử Huỳnh Công Lý, Phó Tổng Trấn Gia Định. Huỳnh Công Lý là cha của một
bà thứ phi rất được vua Minh Mạng sủng ái. Ỷ thế cha vợ vua, viên quan lớn này
vơ vét tài sản của dân chúng, hà hiếp kẻ yếu, hối lộ trắng trợn. Tiếng kêu ca
thấu đến tai Lê Văn Duyệt, ông cho điều tra tận gốc, có đủ bằng chứng ông dâng
sớ lên triều đình hài rõ tội trạng của Huỳnh Công Lý. Ngại triều đình vị nể cha
vợ của vua, không dám thẳng tay trừng trị. Lê Văn Duyệt dùng quyền “tiền trảm
hậu tấu” được Gia Long ban cho để ra lệnh xử trảm Huỳnh Công Lý, trước khi có
lệnh giải tội phạm về kinh cho vua xét xử !
Ngoài đức thanh liêm, ông còn có cái dũng của bậc
trượng phu, không e ngại hay sợ sệt khi thi hành công việc lợi dân lợi nước.
Trường hợp vừa kể là một ví dụ. Và hai là có lần nhà vua cử người vào Nam giữ
chức vụ quan trọng đều bị ông từ chối, Vì Lê Văn Duyệt biết những người này chỉ
là những kẻ tham lam, hại dân hại nước. Một trong những người đó là Bạch Xuân
Nguyên mà sau
này sẽ là đầu mối của cuộc nổi loạn do Lê Văn Khôi, con nuôi ông, chủ xướng. Nhà vua cũng thầm ghét vì
Tả quân không cấm đạo quá gắt gao. Lê Văn Duyệt cho rằng việc cấm đạo, bắt bớ
chém giết các nhà truyền giáo, giáo dân, bế môn tỏa cảng không cho người Tây
phương vào giao dịch buôn bán, là một chính sách hết sức sai lầm.
Vậy cho nên, Minh Mạng không ưa những thái độ ương ngạnh
đó nhưng vì uy thế,tài đức của Lê Văn Duyệt lớn quá nên nhà vua chưa thể ra
tay.
Công lao
Công lao của Lê Văn Duyệt đối với người dân vùng Đồng
Nai -Cửu
Long thật vô
cùng to tát. Đó là công khai hoang, lập ấp; làm cho một vùng rừng rậm, đầm lầy…
trở nên trù phú với một nền an ninh vững chắc, bởi chiến lược bảo vệ và phòng
thủ phía Nam và phía Tây rất hữu hiệu của ông. Ông cũng chính là người góp
nhiều công sức cho việc đào kênh Vĩnh Tế, làm cho dân Miền Nam ít nhiều cũng có được một xã hội
khá yên ổn, ấm no...Phan Thanh Giản, cũng là một vị quan có tài đức thời bấy giờ, đã thốt
lên lời khen ngợi :
Gia Định này thật có phúc mới gặp được một Tổng Trấn
như đại quan. Tôi ở Kinh Thành, ở Bắc Thành vào Gia Định thấy như đi qua một
nước khác. Ở dọc sông thì trên bến, dưới thuyền, ghe thuyền san sát, lúa gạo
nghìn nghịt. Vải vóc, đồ thau, đồ đồng, đồ sứ, đồ gốm, thảo mộc quý, quế, trầm,
hồi thật là không thiếu thứ gì. Trên đất liền, nhà cửa phố xá san sát, khang
trang. Đường đi lại lát gạch, lát đá sạch sẽ mát mắt…. Cảnh dân theo đạo Thiên Chúa
trốn chui, trốn nhủi như ở ngoài Bắc Thành, Kinh Thành, ngoài Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, vào đây không thấy. Cha truyền giáo vẫn đi lại bình thường
trên đường phố. Tôi thật mừng. Mình làm quan thấy dân vui là mình vui. Làm quan
chỉ biết vui phần mình thật đáng trách.
Năm 1822 một phái đoàn Anh do ông Crawfurd dẫn đầu có
đến yết kiến Ngài Tổng Trấn. Trong dịp này Crawfurd thú nhận: Đây là
lần đầu tiên tôi tới Saigun (Sài Gòn) và Pingeh (Bến Nghé). Và tôi bất ngờ thấy
rằng nó không thua gì kinh đô nước Xiêm. Về nhiều mặt trông nó còn sầm uất hơn,
không khí mát mẻ hơn, hàng hóa phong phú hơn, giá cả hợp lý hơn và an ninh ở
đây rất tốt, hơn nhiều kinh thành mà chúng tôi đã đi qua. Tôi có cảm giác như
đây là một vương quốc lý tưởng.
Sau đó ông còn ghi lại trong quyển nhật ký của ông về
những sinh hoạt của thành phố Sài Gòn lúc đó và tiếng tăm của Ngài Tổng trấn
như sau:
Ở đây chúng tôi mua được rất nhiều lúa gạo, ngà voi,
sừng tê giác, các hàng tơ lụa, đũi thật đẹp. Từ các nơi, dân đi thuyền theo các
kênh rạch lên bán cho chúng tôi. Nhìn dân chúng hân hoan vui vẻ, chúng tôi biết
dân no đủ. Nhiều người rất kính trọng vị Tổng Trấn của họ.
Thành phố Saigun không xa biển, có lẽ cách độ 50 dặm;
thành phố Pingeh (Bến
Nghé) gần đó cách
thành phố Saigun độ 3 dặm. Dinh Tổng trấn khá đồ sộ và uy nghiêm. Các thành trì
nằm ở bờ sông An Thông hà. Nơi đây buôn bán sầm uất. Dân xiêu tán tới đây được
Tổng trấn cho nhập hộ tịch, qua một hai đời đã trở thành người Gia Định. Đông
nhất nơi đây là dân Trung Hoa. Các dân tộc nơi đây được nhà nước bảo hộ và họ
đều có nghĩa vụ như nhau. Tất cả đều được sống trong bầu không khí an lành.
Trộm cướp không có. Người ăn mày rất hiếm. Tổng trấn rất nhân từ, tha cả bọn
giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình
không chịu quy phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng
như ở đây. Một vị quan nhỏ ra đường ghẹo gái cũng bị cách chức lưu đày. Một đứa
con vô lễ chửi mẹ, Tổng Trấn biết được cũng bị phạt rất nặng. Con người này ít học. Nhưng lạ
lùng thay là có được cái nhìn cởi mở hơn nhiều những đại thần và cả nhà vua học
rộng, làu kinh sử của Khổng giáo. Ngài sống thanh liêm, muốn mở mang đất Gia
Định này trù phú hơn mọi quốc gia khác ở trong vùng biển Đông
Mục lục trang khoahoctheky21
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét