CÓ 3 NỀN VĂN HOÁ LỚN HIỆN NAY
TỰA VÀO 3 MỆNH ĐỀ LỚN SAU
TỰA VÀO 3 MỆNH ĐỀ LỚN SAU
1-NỀN VĂN HOÁ “KINH THÁNH” MỌI MUÔN VẬT
ĐỀU DO THƯỢNG ĐẾ TRỜI ĐẤT SINH RA
ĐỀU DO THƯỢNG ĐẾ TRỜI ĐẤT SINH RA
2- NỀN VĂN HOÁ “KINH DỊCH” TẤT CẢ MỌI THỨ
ĐỀU DO ÂM DƯƠNG MÀ HÌNH THÀNH
ĐỀU DO ÂM DƯƠNG MÀ HÌNH THÀNH
3- NỀN VĂN HOÁ “DARWIN . MARK . LENIN” TẤT CẢ
MỌI THỨ,MỌI SỰ VIỆC PHẢI CÓ THỜI GIAN TIẾN
HOÁ MÀ HÌNH THÀNH
MỌI THỨ,MỌI SỰ VIỆC PHẢI CÓ THỜI GIAN TIẾN
HOÁ MÀ HÌNH THÀNH
- NỀN VĂN HOÁ VẬN CHUYỂN NỀN
KINH TẾ QUỐC GIA VÀ THẾ GIỚI
- CÁC NỀN VĂN HOÁ ĐƯỢC LAN TRUYỀN
TỪ CÁC TÔN GIÁO
- TỪ KHI THUYẾT NGUYÊN TỬ RA ĐỜI
CHỨNG MINH ÁNH SÁNG LÀ VẬT CHẤT
TỪ CÁC TÔN GIÁO
- TỪ KHI THUYẾT NGUYÊN TỬ RA ĐỜI
CHỨNG MINH ÁNH SÁNG LÀ VẬT CHẤT
3 bai gửi từ mail A Vũ Hữu Chính PCT DHVV PN
Bài số 1 VỀ PHƯƠNG PHÁP KHẢO CỨU LỊCH SỬ DÒNG HỌ
Bài số 1 VỀ PHƯƠNG PHÁP KHẢO CỨU LỊCH SỬ DÒNG HỌ
Nhà giáo ưu tú Vũ Thế Khôi
1. Dựng nước và giữ nước là
sự nghiệp của “thần dân trăm họ”, vậy
thì ngọn nguồn của dòng họ rất có thể cũng bắt đầu từ thuở xa
xưa ấy. Từ thời xa xưa ấy ở nước ta chỉ còn lại truyền thuyết, thần tích, một số
lời truyền. Sẽ là sai lầm nếu cho rằng các “tài liệu” này hoàn toàn hoang đường.
Truyền thuyết nào “hoang đường” hơn truyền thuyết về thời Hùng Vương, được ghi
lại trong Đại Việt sử ký toàn thư ở
cuối thế kỷ XV? Phải hơn 5 thế kỷ sau, từ khoảng những năm 60 của thế kỷ XX,
ngành khảo cổ học Việt Nam mới chứng minh được rằng triều đại Hùng Vương với 18
đời vua là có thật. Có nghĩa là truyền thuyết và thần tích có thể phản ánh sự
thực lịch sử. Bởi vậy13 năm trước đây, năm 2001, trong một tham luận khoa học
tại hội thảo “Gia phả Việt Nam từ truyền
thống đến hiện đại”, chúng tôi đã đề xuất: “các truyền thuyết, sự tích về
dòng họ nên sưu tầm”; đồng thời cũng cảnh báo rằng đó là “chỉ những
tài liệu tham khảo”, trong việc nghiên cứu lịch sử dòng họ, bởi nếu “chỉ dừng
ở một truyền thuyết về nhân vật có niên đại cổ nhất… e rằng hành trình về nguồn
cũng sẽ đi vào đất huyền thoại”. Vậy phải làm gì?
2. Phải đi tìm chứng tích
để phân tách phần sự thực lịch sử với phần “sáng tác”, hoang đường trong các
truyền thuyết, thần tích. Chính sử không ghi lại được thì phải đi tìm chứng
tích “không chính thống” trong dân gian, trong lời truyền khẩu của các dòng họ,
trong truyện dân gian, ca dao, hò vè, trong cả các thành ngữ, tục ngữ, địa danh
cổ… tức đi điền dã. Tài liệu điền dã này cần đem đối chứng với nhau, đối chứng với những
sự thực có ghi trong chính sử , cổ phả, bi ký mộ cổ. Chúng tôi đã mò mẫm
mười lăm năm đi theo con đường mòn này nhằm chứng minh hồi đầu thế kỷ XIX, tại
Hà Nội từng tồn tại một tổ chức văn hóa - xã hội phi chính thống là Hướng Thiện hội đền Ngọc Sơn. Do Tiến sĩ
Vũ Tông Phan (1800 - 1851) rồi Phó bảng Nguyễn Văn Siêu (1799 - 1872) đứng đầu.
Hội này tập họp “Nho sĩ bình dân” (chúng tôi mượn thuật ngữ của nhà văn hóa
Nguyễn Khắc Viện), trong làng xã, vốn ngấm ngầm đối lập với triều Nguyễn, liên
kết với thương nhân trong phố phường, cả một số binh sĩ và quan chức địa phương
– như các bia hiện vẫn còn trong đền Ngọc Sơn cho biết, hoạt động rất hiệu quả
trong công cuộc chấn hưng văn hóa - giáo dục Thăng Long - Hà Nội, đã suy đồi
nghiêm trọng sau cuộc nội chiến khốc liệt Tây Sơn - Nguyễn Ánh. Nhờ những hoạt
động của Hội, đến khoảng giữa thế kỷ XIX Hà Nội, như nhận xét của một ký giả nước
ngoài, tuy không còn là kinh đô, đã vươn lên đứng đầu cả nước về kinh tế, giáo
dục và văn hóa. Tuy nhiên trong bộ sử Đại
Nam thực lục đồ sộ của Quốc sử quán triều Nguyễn, không có nửa chữ về Hướng
Thiện hội và những hoạt động của nó. Tại hội thảo quốc tế ở Aix-en-Provence (Pháp)
tháng 5/2007, sau khi nghe báo cáo của tôi về hội Hướng Thiện Ngọc Sơn như một
cội nguồn văn hóa - xã hội của phong trào Duy tân - Đông Kinh nghĩa thục hồi đầu
thế kỷ XX, một học giả Pháp cho tôi biết rằng tôi đã đi đúng phương pháp của
trường phái gọi là microhistoire (tạm dịch là vi lịch sử, dã sử), hình thành ở
Ý, lan sang Pháp, Đức rồi cả Mỹ. Ông còn nói với tôi rằng: mọi chính sử đều có
phần xuyên tạc lịch sử và bỏ sót, cần có microhistoire để đối chứng. Vậy thì
microhistoire có thể là một phương pháp hữu hiệu trong công cuộc khảo cứu lịch
sử dòng họ. Vấn đề là điền dã theo hướng nào?
3. Trong
lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, ta đã nhiều lần mất nước, nhưng
chưa một lần mất làng, nên cuối cùng lại lấy lại được nước. GS Keith Taylor vốn
là một người lính viễn chinh Mỹ trong cuộc chiến vừa qua ở Việt Nam. Một câu hỏi
luôn day dứt người lính Mỹ này: những người Việt đã dám đối đầu với chúng ta, họ
xuất xứ từ đâu? Hết hạn quân dịch, về nước anh lính Mỹ vào khoa sử, tốt nghiệp
đại học, bảo vệ luận văn thạc sĩ, rồi tiến sĩ – đều về sử Việt Nam. Trong công
trình trên cơ sở luận án tiến sĩ “The Birth of Việt Nam” (Sự ra đời của Việt
Nam) mà các sinh viên Mỹ học tiếng Viêt, sau khi nghe tôi giảng về văn hóa Việt
Nam, đã viết thư cho thày Keith Taylor của mình, xin ông gửi sang 1 cuốn để tặng
tôi, ông Giáo sư Mỹ viết, đại ý: người Việt sau “lò lửa” (chữ của Taylor) nghìn
năm Bắc thuộc, dẫu có khác trước, song vẫn là người Việt, vì hai lẽ: 1) tiếng
Việt còn, 2) làng xã Việt còn.
Đặc điểm của dòng họ Việt
Nam, khác với “cửu tộc” Trung Hoa, là
quan hệ hữu cơ với làng xã Việt trồng lúa nước. Người Việt coi trọng
láng giềng, làng xã hơn tộc họ. “Bán anh
em xa, mua láng giềng gần”. Quả vậy, ông láng giềng không cho dẫn nước qua
đất nhà ông ấy để cấy lúa, thì anh em xa có đông đảo bao nhiêu cũng bó tay! Do
đó hướng làm việc điền dã trong khảo cứu lịch sử dòng họ, là: gắn
liền việc về nguồn dòng họ với lịch sử phát sinh và phát triển làng xã.
Các quyển gia phả cổ bao giờ cũng đề tên làng là vì vậy, chẳng hạn Mộ Trạch Vũ tộc thế hệ sự tích …
Vậy thì phải tìm về quê cha đất tổ, tức làng quê gốc của mình mà khảo sát điền
dã, nếu từ đó đã thiên đi tứ xứ, thì cũng phải đi tứ xứ mà tìm, không còn hướng
đi nào khác đâu. Sinh thời, nhà văn hóa lớn Hoàng Đạo Thúy đã có lần gợi ý
chúng tôi vẽ không chỉ cây phả hệ mà cả bản đồ thiên cư của dòng họ. Công
phu lắm! Và có thể lần tìm khắp nơi khắp chốn mà chẳng thấy gì! “Có sao đâu! –
tôi đã viết trong tham luận tại cuộc Họp mặt dòng họ Vũ-Võ lần thứ IV, Hà Nội
24/11/2002: - Bởi chính ước vọng tầm nguyên thôi thúc tôi và anh đến với nhau,
rồi nếu thành tương đắc thì dắt tay nhau lội ngược dòng thời gian mịt mờ đi tầm
tông vấn tổ: ý nghĩa văn hóa lớn lao chính ở trong quá trình tầm nguyên rồi” –
như vế đối tiến sĩ Vũ Tông Phan viết trên cột hoa biểu chính giữa cổng đền Ngọc
Sơn: “Tầm nguyên phỏng cổ thử trung vô hạn
phong quang” (Truy tìm cội nguồn, học hỏi cổ xưa, trong việc ấy vô hạn ánh sáng
phong văn). Ông Nghè họ Vũ, về cuối đời, năm 1848, vì bất mãn với triều Nguyễn
anh em, quần thần phe cánh thanh toán nhau trong khi họa ngoại xâm đã sờ sờ trước
mắt (năm 1847 pháo hạm Pháp nổ súng bắn chìm 7 tầu đồng của thủy quân triều
Nguyễn ở cửa biển Đà Nẵng), nên đã dời trường Hồ đình dưới gốc đa bên hồ Gươm (nay
là Tòa soạn báo Nhân Dân) về ẩn dật ở làng Kim Giang trên sông Đáy thuộc trấn
Sơn Nam (nay thuộc huyện Hoài Đức – Hà Nội). Tại đây ông đã ngao du nhiều, bắt
gặp các địa danh của xứ Hải Dương như Đường An (tên cổ của huyện Bình
Giang ngày nay), Đào Xá (tên xã, nay vẫn còn ở huyện Bình Giang), nên trong bài
thơ cảm hoài một đêm câp thuyền bến Đường An trển sông Đáy bất giác tự vấn về
nguồn gốc các địa danh ấy cùng sự thiên di của cư dân xứ Hải Dương xưa:
Tôi người đất Đường An
Đông Hải,
Đường An Nam Sơn ghé đêm
nay,
Biết đâu năm trăm năm về
trước
Người đất quê tôi dời tới
đây?
Vời vợi dấu xưa tìm chẳng
được,
Thâu đêm canh cánh giấc
không say,
Mông lung đáy mắt chong
thao thức,
Thấu sao mờ mịt ý cao
dày?
(Vũ
Tông Phan - Đường An dạ bạc ngẫu hoài)
Bài số 2 Về bản gia phả chữ Hán của Vũ Phạm Hàm
MỘNG HỒ
GIA TẬP 夢湖家集
1. Xuất xứ của tư liệu
Gia phả là loại thư tịch “tam sao thất bản” nhiều
nhất, đặc biệt từ đời Tự Đức trở đi, khi noi gương “tập đại toàn” của triều đình, người ta bắt đầu “hợp biên”
tộc phả, thêm thắt, móc nối, tô vẽ để tôn vinh tổ tiên, làm sai lệch hiện thực
lịch sử các dòng họ Việt Nam, vốn dĩ đã phức tạp[1]. Bởi vậy trước khi khai thác,
sử dụng loại tài liệu này, nhất thiết phải thẩm định văn bản về lai lịch, tác
giả, niên đại[2].
Trong trường hợp Mộng Hồ gia tập chúng tôi
đã gặp may. Khi mang bản photocopy quyển tộc phả do Thám hoa Vũ Phạm Hàm soạn bằng
chữ Hán, đến nhờ chúng tôi dịch sang tiếng Việt, ông Phạm Vũ Úy, hậu duệ của dòng
họ này, cho biết rành mạch: bản gốc của bộ tộc phả Phạm - Vũ làng Đôn Thư huyện
Thanh Oai, do chính cụ Thám Hàm biên soạn năm 1888, đã mất tiêu trong Cải cách
ruộng đất, vì toàn bộ thư viện quý giá hàng ngàn quyển của gia đình Cụ bị đội
CCRĐ đem trưng bày ở chợ Chiều để “lên
án địa chủ phong kiến”. Bản ông Úy cung cấp, không phải là bản biên tập lại mà
là bản sao từ bản gốc, do con trai thứ hai của cụ Thám hoa là ông Vũ Phạm Thảng,
người giữ việc thờ cúng, thực hiện năm 1930, tức từ 25 năm trước biến cố trên,
về sau “bằng một cách nào đó” được gửi vào viện Viễn Đông bác cổ trước năm
1943, là năm cụ Thảng mất. Theo sự tìm hiểu của chúng tôi về gia phả học Việt
Nam, khoảng những năm 30 - 40 của thế kỷ trước, Viễn Đông Bác Cổ có chủ trương
sưu tầm các phả cổ. Chẳng hạn, năm 1942, cụ Trần Văn Giáp, thành viên của cơ
quan khoa học này, đã về tận “tiến sĩ sào” là làng Mộ Trạch khảo sát và nhờ sao
lục bộ Mộ Trạch Vũ tộc thế hệ sự tích nổi tiếng.
Do một người nhà công tác tại Viện Thông tin KHXH
cho biết ở Viện Sử học có 01 bản Mộng Hồ gia tập chép tay trên giấy bản,
ông Úy, vốn từ lâu đã quan tâm sưu tầm và làm phả dòng họ mình, đã nhờ làm cho
một bản photocopy để khảo cứu.
Tại Thư viện của Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội hiện
lưu trữ đại bộ phận gia phả viết bằng chữ Hán Nôm, chỉ có Mộng Hồ thi tập. Tại sao Mộng
hồ gia tập lại “lưu lạc” sang Viện Sử học? Có lẽ nguyên do là như
sau: trên trang thứ nhất của Mộng Hồ gia tập có đóng con dấu hình
chữ nhật: “Đảng Lao động Việt Nam
– Ban nghiên cứu Văn - Sử - Địa. Thư viện”. Chúng ta biết Ban Văn - Sử - Địa,
tiền thân của Viện KHXH ngày nay, được thành lập trong núi rừng chiến khu Việt
Bắc năm 1953, so với Viện Nghiên cứu Hán Nôm sớm hơn rất nhiều, và trực thuộc Trung ương Đảng, do đó các tài liệu
liên quan đã từ trường Viễn Đông Bác Cổ chuyển giao về Thư viện của Ban Văn - Sử
- Địa. Khi tự tay làm lại bản photocopy bị hiện chữ ở mặt sau do giấy bản sao lục
quá mỏng, ông Phạm Vũ Úy, một người đã nhiều năm sưu tầm và khảo cứu các bản
gia phả của dòng họ mình, vốn có ý thức về văn bản cổ nên đã đối chiếu với bản
sao gốc ở Viện Sử học, chú ý giữ lại bố cục và số trang của nó, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc khảo cứu.
2. Bố cục
Mộng
Hồ Gia tập
Mộng Hồ gia tập là một sách 29 tờ, 58 trang, mỗi trang 8 cột, mỗi cột 18
chữ Hán, kiểu chữ chân phương đẹp. Ở góc trên lề phải trang thứ nhất là đề sách:
夢湖家集
cột tiếp theo viết:
河内省應和府青威縣中總敦書范武氏普圖 (Hà Nội tỉnh Ứng Hòa phủ Thanh Oai huyện Phương
Trung tổng Đôn Thư Phạm-Vũ thị phổ đồ)
Chúng tôi không ngẫu nhiên in đậm nét ba chữ “Phạm-Vũ thị”, lí do sẽ xin nói
rõ dưới đây.
Sau dòng trên sách chép liên tục 58 trang, với những đề mục sau:
-
序 (Tựa). Ở lạc
khoản viết: 歲在戊子夏四月 弟九孫諴拜識 (Tuế tại Mậu Tý [1888] Hạ tứ nguyệt. Đệ cửu tôn Hàm bái chí. - VTK in đậm)
-
例言 (Lệ ngôn)
-
譜圖 (Phả đồ)
( bỏ trống một trang mặt sau)
-
先祖行狀 (Tiên tổ hành trạng). Ở lạc khoản viết: 先祖行狀乙酉年起草丁亥年屬藁奉原吏部尚書榆林雲麓阮公思僩潤正 戊子年謹書庶孫諴拜識 (Tiên tổ hành
trạng Ất Dậu niên [1885] khởi thảo, Đinh Hợi niên [1887] chúc cảo. Phụng nguyên
Thượng thư Lại bộ Du Lâm Vân Lộc Nguyễn công Tư Giản nhuận chính. Mậu Tý niên [1888] cẩn thư, thứ tôn Hàm bái chí. - VTK in đậm)
-
先母傳 (Tiên mẫu truyện). Ở lạc khoản viết: 先母傳丁亥年起草戊子年屬藁奉原吏部尚書俞林雲麓阮公思僩潤正 五月諱日半一夜焚香然臘謹書嗣子諴泣識 (Tiên mẫu truyện Đinh Hợi niên [1887] khởi thảo Mậu Tý niên [1888] chúc
cảo. Phụng nguyên Lại bộ Thượng thư Du Lâm Vân Lộc Nguyễn công Tư Giản nhuận
chính. Ngũ nguyệt húy nhật bán dạ phần hương nhiên lạp cẩn thư, tự tử Hàm khấp chí. - VTK in đậm)
-
先考事寔記 (Tiên khảo sự thực kí). Ở lạc khoản viết: 保大五年十月初十日 後學辛丑庭元進士巡撫致仕鄒江友梅阮廷詢恭正 次南淌焚香泣誌 門人翰林院待詔秀才陳文爵拜攷 (Bảo Đại ngũ niện [1930] thập nguyệt sơ thập nhật.
Hậu học Tân Sửu đình nguyên tiến sĩ tuần phủ chí sĩ Trâu Giang Hữu Mai Nguyễn Đình
Tuần cung chính. Thứ nam Thảng phần
hương khấp chí. Môn nhân Hàn lâm viện đãi chiếu tú tài Trần Văn Tước bái khảo)
Lướt qua các đề mục với những dòng lạc khoản trên đây, có thể xác định
được ngay là trừ 8 trang cuối cùng “Tiên khảo sự thực kí” là bản tiểu sử Vũ Phạm
Hàm do người con trai thứ viết năm 1930, tất cả các phần còn lại của bản tộc phả
họ Phạm-Vũ làng Đôn Thư là do chính Vũ Phạm Hàm, cháu đời thứ 9, khởi thảo từ
năm 1885, khi mới 22 tuổi, đến năm
1888 thì hoàn thành. Có 50 trang với khoảng ngót chín trăm chữ mà Giải nguyên
tài hoa của khoa thi Hương 1884 viết ròng rã 3 năm, chứng tỏ một sự làm việc cẩn
trọng như thế nào. Vũ Phạm Hàm, theo chính lời cụ viết trong lời Tựa: “... đã tìm kiếm di cảo, khảo cứu
thế hệ, lập thành phả đồ, bổ túc mà viết nên phả”. Những phả ký (về nội tổ và
thân mẫu) là phần người soạn gia phả dễ mất khách quan và thiếu chừng mực trong
xu hướng tôn vinh tổ tiên, Vũ Phạm Hàm lại trình nhà khoa bảng và là vị quan nổi
tiếng thanh liêm chính trực, sống đồng thời và làm quan đồng triều với các nhân
vật trong bài ký, xin được nhuận chính. Vì vậy Mộng Hồ gia tập là một phả
liệu đáng tin cậy.
3. Nội dung Mộng Hồ gia tập
Mộng hồ gia tập cho chúng ta
những thông tin gì xác thực?
3.1. Về nguồn gốc dòng họ Thám hoa Vũ Phạm Hàm -
Ở ngay cột chữ đầu tiên của bài Tựa, vị
Thám hoa họ Vũ khẳng định cụ là hậu duệ của dòng họ Phạm-Vũ làng Đôn
Thư: “Đôn Thư Phạm-Vũ thị phổ đồ”. Cuối bài Tựa lại ghi rõ:
“Cháu đời thứ chín Hàm cúi lạy viết” – tức xác nhận mình nguồn gốc
họ Phạm-Vũ. Về ông nội Vũ Đăng Dương, đỗ Hương cống khoa thi
Hương 1821 và làm quan đến Tế tửu Quốc tử giám, Thám hoa họ Vũ cũng ghi rõ
ràng: “Ông họ Phạm-Vũ, tên húy là Cát, về sau khi đi thi viên Thủ bạ viết họ là Vũ, húy Đăng Dương”. Chúng tôi không ngẫu nhiên nhấn mạnh điều này.
Vấn đề là ở chỗ một số người họ Vũ mong muốn quy tất tật danh nhân mang họ Vũ
xưa nay ở Việt Nam về một Thủy tổ Vũ Hồn, viên An Nam Kinh lược sứ (841 – 843)
triều Đường, người từ Trung Hoa[3], nên đã có
vị họ Vũ, không nêu một căn một nào, viết trên Bản tin của Hội đồng dòng họ Vũ
(Võ) Việt Nam rằng: Mộng Hồ gia tập là “gia phả họ Vũ-Phạm Đôn Thư”[4]. Thực ra,
theo bản “Họ Phạm-Vũ Đôn Thư –Biểu đồ 64 phân chi hiện hữu” do cháu đời
thứ 12 Phạm Vũ Úy lập, thì Vũ-Phạm chỉ là một “biệt chi
trong dòng họ Phạm - Vũ Đôn Thư”, mới hình thành được hơn 100 năm nay, từ khi cụ
Hàm đỗ Thám hoa, tức từ năm1906, cũng như trong dòng họ này còn các biệt chi Lê
- Phạm và Trần - Phạm.
Về cội nguồn của dòng họ Phạm mình, Thám hoa Vũ Phạm
Hàm, với thái độ nghiêm cẩn của các nhà Nho xưa khi làm phả, đã viết trong bài Lệ
ngôn (thể lệ viết phả): “Tổ tiên dòng họ ta không biết từ đâu tới, cũng có lời truyền rằng từ Thanh Hóa ra, nay
với [họ Phạm] Tế Tiêu[5], Đông Ngạc[6] lại cũng
nhận là cùng họ, nhưng không có bằng cứ để khảo nghiệm cho nên không dám lấy
làm đích thực” (chúng tôi nhấn, - VTK). Họ Phạm làng Đông Ngạc, nay thuộc
huyện Từ Liêm, là một danh gia vọng tộc với 11 tiến sĩ, nhưng đến đời cụ Thám
Hàm mới chỉ có “lời truyền”, mà lời truyền thì, theo cụ, “không dám lấy làm đích thực” để móc nối phả, hẳn liêm sỉ của Nho
gia khiến Cụ e mang tiếng “thấy sang bắt quàng làm họ”. Riêng đối với làng
Phương Trung cùng tổng, đời cụ Thám chứng
kiến vẫn qua lại trong những dịp giỗ chạp, nên cụ khẳng định “đích xác là một
chi phái gần”, “thực quả là những người trong một dòng họ”[7],
nhưng vì chưa tìm được phả, chỉ có những lời lược ghi theo lời truyền lại, nên
cụ vẫn không ghi vào “Phổ đồ” do cụ lập
cho dòng họ Phạm-Vũ Đôn Thư. Quả là
một thái độ trung thực và cẩn trọng của Nho gia trong việc viết gia sử, đáng
nêu gương cho những người cầm bút viết phả ngày nay! Ngót một thế kỷ sau, các hậu
duệ của Thám hoa Vũ Phạm Hàm đã tìm được căn cứ để chắp nối phả với họ “Phạm
Tam chi” làng Phương Trung, chép phả đồ dòng họ Phạm này ngược lên được 5 đời nữa
trước vị Khởi tổ ở Đôn Thư, cộng với 9 đời trong “Phổ đồ” của cụ Thám là 14 đời,
lại chép nối được 6 đời nữa đến tận ngày nay, tổng cộng là 20 đời, khoảng năm
trăm năm (theo Phạm Vũ úy).
3.2. Lý do xuất hiện chữ “Vũ”, tạo thành các họ kép“Vũ-Phạm”
và “Phạm-Vũ” -
Về Khởi tổ
của dòng họ mình, Thám hoa Vũ Phạm Hàm viết: “Cụ Trực Hiền[8]
họ Phạm” Đến đời thứ hai, con của cụ Phạm Trực Hiền là Phúc Trạch,
được Triêu Ba hầu Vũ Khang Chính
(cũng gọi là Cương Chính) nhận làm con nuôi, “bèn đổi sang họ Vũ, dọn
đến ở xã nhà, đời sau noi theo đấy mà lấy Vũ làm họ, kèm thêm chữ Phạm”. Như vậy
đời thứ hai là Vũ-Phạm Phúc Trạch. ,
theo cách tính niên đại tương đối của chúng tôi, việc này xảy ra khoảng 1684+10,
tức vào nửa sau TK XVII. Thám Hàm viết tiếp: “Cụ Triêu Ba hầu sinh con trai, đặt
tên là Trực Tâm, bị chết sớm, nên lại nhận con trai của Phúc Trạch là Phúc Quý
làm con nuôi”. Vậy là đời thứ ba là Vũ-Phạm
Phúc Quý. Và lý do đổi sang họ Vũ, lấy Phạm làm đệm (để khỏi quên cội nguồn!),
đều là vì trả ơn nuôi dạy, chứ hoàn toàn
không có quan hệ huyết thống, dù là về đằng mẹ như trong một số trường hợp
khác (trong dòng họ Tiến sĩ Vũ Tông Phan, chẳng hạn). Từ đời thứ 4 trở xuống đến
đời thứ 6 không thấy cụ Thám ghi họ gì trước tên húy các vị tiên tổ, đến đời thứ
7 là đời ông nội Vũ Đăng Dương của
mình mới thấy Vũ Phạm Hàm ghi rõ trong bài phả kí: “họ Phạm-Vũ, tên húy là Cát, khi
đi thi viên Thủ bạ viết họ là Vũ,
húy Đăng Dương”. Tuy nhiên vị tiên tổ ở đời trên là đời thứ 6 mà Thám Hàm chỉ
ghi: “Dư, tên cũ là Sùng, đỗ Hương cống khoa Đinh Mão [1807]” thì sách Quốc
triều Hương khoa lục của Cao Xuân Dục ghi rõ ràng: “Phạm Đình Dư, người
xã Đôn Thư huyện Thanh Oai”. Cùng đỗ khoa thi này còn có người cháu họ của ông
Dư, cụ Thám cũng chỉ ghi: “Quyền, còn có tên là Phác, đỗ Hương cống khoa Đinh
Mão [1807], làm quan đến chức Tế tửu Quốc tử giám” thì sách trên đây ghi danh
tính đầy đủ là Phạm Vũ Phác.
Tuy khoa thi Hương năm 1813, do đầu đời Gia Long, sau cuộc nội chiến kéo dài
hai chục năm với Tây Sơn, việc kiểm soát hộ tịch chưa chặt chẽ, em ruột
cụ Phạm Đình Dư, lại lấy họ Vũ đi thi, đỗ Hương
cống, danh tính ghi trong sách của Cao Xuân Dục là Vũ Đình
Bách, nhưng trong “Biểu đồ 64 phân chi” vẫn chép cụ và các hậu duệ của cụ với họ
Phạm-Vũ. Vậy là sau 4 đời mang họ Vũ-Phạm
để trả ơn dưỡng dục, dòng họ này ở Đôn Thư đã
lấy lại họ gốc của Khởi tổ Trực Hiền là Phạm, chỉ thêm chữ
đệm Vũ, thành họ kép Phạm-Vũ Đôn Thư, như Thám Hàm ghi
ở cột đầu tiên trang thứ nhất của Mộng Hồ gia tập.
Vậy tại sao chàng Nho sĩ Hàm đi thi lại ghi họ Vũ-Phạm
chứ không phải là Phạm-Vũ?
Đó là vì theo thể lệ thi cử xưa phải khai danh
tính đến ông tam đại. Ông nội của Nho sĩ Hàm, như cụ Thám viết, khi đi thi Thủ
bạ ghi danh tính là Vũ Đăng Dương, đã đỗ Hương cống
nên cái tên với họ Vũ ấy đã ghi vào bảng Đăng khoa lục,
rồi lại vào sổ Quan trường trải nhiều chức vụ đến Tri phủ. Việc quản lý hộ tịch
từ đời Minh Mạng về sau rất chặt chẽ, không thể tùy tiện đổi lại, nên cháu nội
là Vũ Đăng Ngạn đi thi có thể đổi
tên là Hàm, nhưng cái họ Vũ thì không được phép đổi, chỉ
có thể lại một lần nữa lấy Phạm làm chữ đệm. Thế là sau 4 đời
đã đứt đoạn, cái họ kép Vũ-Phạm
trong dòng họ Phạm làng Đôn Thư xuất
hiện lần nữa ở đời thứ 9, và vì người mang họ ấy đã cao khoa hiển hoạn, nên từ đấy, 1906, hình thành một biệt chi
“Vũ trong Phạm”, tính đến nay là 103 năm, còn nếu tính từ năm 1821 khi cụ Phạm
Vũ Cát đi thi “Thủ bạ ghi” là Vũ Đăng Dương thì đã được 188 năm.
3.3. Một
cách lập phả đồ tiện lợi -
Bản “Phổ đồ” 9 đời 2 chi, 7 tiểu chi họ Phạm-Vũ làng Đôn Thư của Vũ Phạm Hàm
thiết kế kết hợp trục ngang với trục dọc
khá tiện lợi. Nó cho phép người đọc xác định nhanh chóng và chính xác quan hệ hàng
ngang và hàng dọc trong gia tộc Phạm - Vũ. Nhìn vào “Phổ đồ” ấy, đọc
theo hàng ngang từ phải sang trái, chúng ta có thể xác định được ngay
các vị tiên tổ bằng vai nhau và thứ tự của họ trong gia tộc (ai trưởng, ai thứ,
ai út); đọc theo hàng dọc, ta thấy ngay ai là con, cháu, chắt, chút,
chít của ai. Đối với việc viết phả, lập lược đồ gia hệ rất quan trọng cho sự
miêu tả chính xác chi phái trong nội tộc, thế thứ và danh xưng của từng vị tiên
tổ. Chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy rằng tuy cha không đỗ đạt gì, nhưng chàng
Nho sinh Hàm vẫn được thừa hưởng một truyền thống thi thư, khoa bảng nhiều đời
trong gia tộc, dẫu chưa có người đỗ đại khoa, nhưng không thiếu Hương cống, Cử
nhân, Tú tài, mà xưa kia “đè” 4 – 5 nghìn người trong một trường thi Hương khó
không kém so với chuyện vượt lên trên chỉ vài ba trăm người trong kỳ thi Hội. Dựa
vào “Phổ đồ” của cụ Thám Hàm, với trợ giúp của các sách tra cứu, chúng ta cũng
dễ dàng tính ra, chẳng hạn, niên đại tương đối (+ 10) của từng thế hệ và
dựa vào đó xác định niên đại tuyệt đối của một số vị tiên tổ cùng những sự kiện
đề cập trong cổ phả - điều rất quan trọng đối với việc khai thác một cách không
lầm lẫn các thông tin từ những bản phả cổ[9].
Việc không xác định được niên đại tương đối từng đời do không có phả đồ (hoặc
người đọc/dịch không tự tái lập được phả đồ đó) có thể dẫn đến những nhầm lẫn rất
phi lí về thế hệ và niên đại của sự việc như kiểu một số vị đời nay biên tập phả
họ Vũ làng Mộ Trạch cho một vị tiên tổ trong họ mình nếu tính theo niên đại
tương đối chỉ mới khoảng 3 tuổi là cùng, mà đã có con trai làm tướng tham gia
năm 1460 vào vụ chém đầu bọn phản nghịch Phạm Đồn, Phạm Ban để phò tá Lê Thánh
Tông lấy lại ngôi báu[10], hoặc như
một vị tiến sĩ sử học nọ cho người sinh ra năm 1763 lại biên soạn quyển phả vào
năm 1664, tức hàng trăm năm trước![11]
Chúng tôi nghĩ rằng phải chăng do có tiếp cận
“Tân thư” nên Thám Hoa Vũ Phạm Hàm mới lập được một “Phổ đồ” tân tiến, với trục
ngang và trục dọc chuẩn xác như vậy.
3.4. Một tấm gương liêm chính quyết liệt chống thượng cấp tham nhũng
Trong bài ký “Tiên tổ hành
trạng” Thám hoa Vũ Phạm Hàm chẳng những ghi lại quá trình học hành, thi cử
và làm quan của ông nội Vũ Đăng Dương mà ở mức độ nhất định còn tái hiện được “ảnh
hưởng”, tức hình ảnh và âm hưởng của một Nho sĩ có khí phách. Khi còn dùi mài
kinh sử thì thông minh nhưng phóng khoáng, đọc sách chỉ lướt mắt lược lấy ý,
làm văn cũng không khổ tâm khổ tứ, vậy mà vẫn thi đỗ. Khi ra làm quan thì tỏ ra
văn võ song toàn, cương trực và dũng cảm. Vốn mưu lược, lại cường tráng ,“bụng
lớn như cái nia..., tóc dài đến gối, tay chân nhanh nhẹn, con ngươi to đen tuyền,
khi ngủ thở ù ù như sấm động”, Tri huyện Đăng Dương dám một mình một côn xông
vào giữa đám cướp hàng trăm tên, và chỉ với hơn chục lính lệ đã bắt chúng phải
quỳ gối chịu trói.
Nhưng khí phách của nhà Nho
thanh liêm, uy vũ bất năng khuất này, bộc lộ đầy đủ nhất trong vụ Tri phủ Vũ Đăng
Dương vạch mặt quan tham cấp trên là Hộ đốc (tức Phó tổng đốc) Ninh - Thái Phạm
Thế Trung ăn chặn thóc gạo triều đình xuất kho lương cứu trợ cho dân đói. Như
trên đã nói, bài ký này đã được Nguyễn Tư Giản, Thượng thư bộ Lại (bộ đảm trách
vấn đề nhân sự!) nhuận chính. Ông là vị Trưởng môn trường Hồ đình của Tiến sĩ
Vũ Tông Phan, đỗ Hoàng giáp năm 1844, nổi tiếng về liêm chính và như gần đây đã
được khẳng định, rất cấp tiến cả về tư tưởng canh tân và tinh thần yêu nước chống
xâm lăng[12]. Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản
đương chức tại Nội các đúng thời gian (1852 - 1853) ông nội Vũ Đăng Dương của
Vũ Phạm Hàm phải vào Kinh đô Huế trình diện Nội các để họ xét hỏi theo các mật
báo vu khống của Hộ đốc họ Phạm. Bởi vậy những sự việc ghi trong bài phả ký “Tiên
tổ hành trạng” của Vũ Phạm Hàm có thể coi đã được đóng con dấu “xác nhận đúng sự
thật”.
Đoạn văn này trong Mộng Hồ gia tập có lẽ là một trong
những thiên phóng sự đầu tiên về chống tham nhũng trong giới quan chức cao cấp,
cũng là trận địa để ngòi bút của Tam nguyên Thám hoa tung hoành. Mượn lời thầy
học là Phó bảng Phạm Hy Lượng, tác giả lột tả thực chất của cuộc đấu tranh chống
tham nhũng là sự đối đầu một mất một còn giữa cá nhân trung trinh với cả một thế
lực hắc ám: “Người ta thì thiên hạ ngửa trông miệng đón ý, cúi nhìn chân tránh
đường, lại luôn luôn sẵn sàng vào hùa với nhau. Thế mà dám chọc giận mũi dùi đã
chĩa ra, đối đầu với thế lực riêng đen tối! Quê ta quả là có một vĩ nhân như vậy
đó!” Tấm gương khí phách của Tri phủ Vũ Đăng Dương hiển hiện sáng chói trong
hành động đứng giữa tỉnh đường trực diện (tuy không chỉ tên) vạch trần sự ăn bẩn
của quan tham họ Phạm trước văn võ bá quan: “Quan ăn nhiều là quan ô trọc – lời
dân gian ấy tuy thô thiển nhưng thiết tha, chân thành về ý tứ. Bọn ta đều được
nhận chức tước của triều đình, phải ngẫm nghĩ về câu ấy. Phàm những đồ ô uế, lũ
chó lợn mới ăn. Người làm quan, thân đã vận gấm vóc, miệng nếm cao lương mĩ vị,
mà sao mắt còn để vào những chỗ ô uế vậy?” Và ông chỉ rõ thế nào là “ăn bẩn:
“Ăn cái không đáng ăn, rồi biến cong thành thẳng, thẳng thành cong, đúng thành
sai, sai thành đúng, bóc lột đến tận xương máu kẻ khốn cùng để bỏ vào miệng vào
bụng mình, sinh đủ ngón độc ác, cốt nuôi béo lũ thê thiếp. Những kẻ như vậy, sống
lòng không trong sạch, không bằng loài chó lợn, nên dẫu thân xác không bẩn như
chó lợn, thì vẫn không tránh được cái tiếng nhơ nhuốc”. Thiết nghĩ, những lời
đanh thép ấy của của ông cháu Thám Hàm
chống tham những vẫn còn nóng hổi hôm nay!
Gây áp lực không xong, cầu cạnh
làm thân chẳng được, Hộ đốc Phạm Thế Trung mật thảo đơn từ, tận dụng “thế lực
riêng đen tối”, lén lút gửi vào cơ quan Liêm phóng trong triều để vu cáo Tri phủ
Vũ Đăng Dương.. Đến khi ông có Chỉ dụ gọi về Kinh kiểm tra thì hắn lại trì hoãn
việc làm giấy tờ và giở giọng mật ngọt khuyên ông về quê dưỡng sức đã, đợi ra
Giêng hãy lai Kinh, cốt lừa ông vào tội chậm trễ. Cây ngay không sợ chết đứng,
Vũ Đăng Dương kiên quyết không giấy tờ cũng vào Kinh đối diện với các cơ quan
khảo hạch của Bộ Hình và Nội các. Chân lý cuối cùng được làm sáng tỏ, Phạm Thế
Trung bị cách chức, Tri phủ Dương được minh oan cho về quê chờ hậu bổ. Tuy
nhiên, có lẽ hơn một năm hao tổn tâm trí và sức lực đã khiến vị quan vốn cường
tráng, nổi tiếng thanh liêm và thân dân, đã qua đời ngay mấy tháng sau khi về đến
quê nhà, hưởng dương 59 tuổi.
Mộng Hồ gia tập dẫu chỉ còn lại bản sao năm 1930, nhưng cả về nội
dung, phương pháp biên soạn, tư cách tác giả và văn phong, vẫn là một di sản
quý hiếm trong kho tàng gia phả Việt Nam bị tàn phá quá tang thương ở thế kỷ đầy
biến thiên vừa qua.
Hà thành, tháng cuối Thu Tân Mão 2011.
Hậu học, Nhà giáo Ưu tú Vũ Thế Khôi cẩn bút
(Đăng Tạp chí Hán Nôm, số 6 / năm 2011)
|
[1] Vũ Thế Khôi: Lược khảo về bản tộc phả của họ Vũ làng Mộ
Trạch trong sách “Vũ tộc thế hệ sự tích”. - ĐHQGHN. Viện Việt Nam học
và phát triển. Chương trình nghiên cứu gia phả Việt Nam , NXB Thế giới 2004, tr. 51 -
53.
[2] Vũ Thế Khôi: Lai lịch và văn bản quyển phả dòng họ Tiến sĩ Vũ Tông
Phan trong sách “Vũ Tông Phan với văn hóa Thăng Long - Hà Nội”. - Trung tâm Văn
hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội 2001, tr. 298 - 310; nxb Lao Động & Trung tâm
VHNN Đông Tây tái bản có sửa đổi, bổ sung, Hà Nội 2010, tr. 256 - 264.
[3] Căn cứ phát hiện khảo cổ học chúng tôi đã chứng minh điều này không
phù hợp sự thực lịch sử. Xin tham khảo: Vũ Thế Khôi: Vũ Hồn có phải là người họ
Vũ đầu tiên ở Việt Nam ?
– Tạp chí khoa học - Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, T.
XX, số 01, 2004, tr. 30 - 35; cũng có thể tìm xem trên mạng Google, từ khóa Vũ
Thế Khôi.
[4] Bản tin Khuyến học – Khuyến tài. – Hội đồng dòng họ Vũ (Võ) Việt Nam ,
quý II – 2008, tr. 45.
[5] Tế Tiêu – một xã trong tổng Phù Lưu Tế, huyện Mỹ Đức lân cận, thuộc
tỉnh Hà Đông cũ.
[6] Đông Ngạc – một xã ở phủ Hoài Đức, cũng thuộc tỉnh Hà Đông cũ.
[7] Cùng giỗ Tổ, cùng thăm viếng một ngôi mộ Thủy tổ theo truyền thống
thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam là căn cứ đủ để đồng nhất “họ”, nhưng chưa
đủ để xác định “hàng”, tức chi phái, thế thứ, và chắp nối phả. Xin tham khảo:
Vũ Thế Khôi: Về bộ tộc phả họVũ Mộ Trạch - Đôi điều bàn lại với ông Alain
Fiorucci. – Tạp chí Xưa & Nay, số 135, tháng 3 – 2003, tr. 18 – 20.
[8] Xin lưu ý rằng tất cả các tên kiểu: Trực Hiền, Phúc Trạch, Phúc
Quý, Khang Chính, Cương Chính (dành cho các cụ ông) v.v… và Từ Nhân, Từ Ý, Diệu
Thanh, Diệu Nhàn v.v… (dành cho các cụ bà) thường gặp ở các vị tiên tổ xa đời
trong các quyển phả cổ chỉ là các tự hiệu, hoàn toàn không phải là căn cứ đủ để
đồng nhất họ hàng.
[9] Về xác định niên đại tương đối và tuyệt đối trong phả cổ xin tham
khảo: Vũ Thế Khôi: Khai thác thông tin từ một quyển phả cổ. – Tham luận khoa học
đọc tại Hội thảo - Giao lưu “Gia phả Việt Nam, từ truyền thống đến hiện đại”, Bảo
tàng Dân tộc học, Hà Nội ngày 12 – 13 / 05 / 2001, in trong sách: Vũ Tông Phan với
văn hóa Thăng Long - Hà Nội. – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội
2001, tr. 310 - 318.
[10] a/ Mộ Trạch, làng tiến sĩ. Vũ Huy Phú sưu tầm và biên soạn, Tăng Bá
Hoành hiệu đính. – Bảo tàng Hải Dương, 1997; b/ Dòng họ Vũ (Võ) ở Việt Nam Xưa
và Nay. Vũ Đình Đức chủ biên. – NXB Thanh niên, 2002.
[11] Vũ Duy Mền: Tấm bia ký lăng mộ ở Đa Căng, xã Vạn Hòa, huyện Nông Cống,
tỉnh Thanh Hóa. – Thông tin dòng họ Vũ (Võ) Việt Nam , số Xuân Kỷ Sửu, 6 + 7 / 2009,
tr. 20 - 23.
[12] Hoàng giáp Nguyễn Tư Giản, cuộc đời và thơ văn. - Trung tâm Văn hóa
và Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội - 2001, x. các bài của GS Trần Nghĩa, GS Đinh Xuân
Lâm, TS Đỗ Đức …
NHỮNG TRANG KHÁC CỦA khoahocthêky21
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét